Tưởng Năng Tiến – 1 Feb 2015
Nghĩa Trang Galang là chứng tích của một giai đoạn lịch sử
không thể xoá bỏ về một hành trình đi tìm tự do bằng mọi giá của cả triệu người
Việt – Trùng Dương
Tôi đến Thái Lan tả tơi, ủ dột, eo xèo và bèo nhèo như một
cái mền sakymen thấm nước. Vì không có thân nhân ở Hoa Kỳ, từ đây, tôi được
đưa sang một trại tị nạn chuyển tiếp để chờ một hội thiện nguyện bảo trợ cho
vào Mỹ.
Thế là tôi bắt đầu cuộc đời ly hương của mình bằng những
ngày mưa đầu mùa ở Galang, một hòn đảo nhỏ bé, thuộc Nam Dương.
Những chiều mưa đầu mùa bao giờ cũng buồn. Những chiều mưa đầu
tiên nơi đất lạ thì buồn muốn chết! Tôi cứ ngồi bó gối, nhìn những giọt nước
trong veo (nương nương) chạy theo mái láng mà nhớ nhà muốn khóc.
Có hôm tạnh ráo, đi lang thang quanh đảo mãi cho đến lúc gần
xẫm tối, tôi lạc vào một khu đất trống. Thoáng nghe tiếng muỗi vo ve, tôi
nhìn xuống chân và hốt hoảng nhận ra là mình đang dẵm chân trên những
nấm mồ của những người đã qua đời tại trại.
Giữa buổi chiều tà vắng lặng, trên một hải đảo hoang vu,
cách quê nhà cả một đại dương xanh thẫm, đứng trên những nấm đất “xè xè” – mọc
đầy cỏ dại, vương vãi mấy chân nhang đã bạc phếch mầu – tôi bỗng cảm được hết
sự lạnh lẽo, thê lương, và ảm đạm của cái cảnh “vùi thây nơi đất khách quê
người.” Cùng lúc, tôi cũng hiểu ngay tại sao trên những ban thờ nho nhỏ
– ở quê nhà – thường luôn có khói hương ấm áp, và ngọn đèn dầu hột
vịt (tù mù) cho đỡ phần quạnh quẽ.
Tôi rời Galang vào một buổi sáng cuối năm 1980 và
trở lại ba mươi bốn năm sau, vào một chiều cuối năm 2014. Nghĩa trang
của trại là nơi tôi cùng người bạn đồng hành (anh N.C.B) đến viếng
đầu tiên. Nhìn những mộ phần khang trang, ngăn nắp, vôi quét trắng
tươi, cỏ dọn sạch sẽ, nằm gọn gàng ngay ngắn – giữa biển trời bao la – tôi mới chợt
nhận ra rằng mình là một kẻ (sống) rất vô tình.
Tôi đã hăm hở và hối hả rời bỏ Galang, để lại không
biết bao nhiêu là nấm mồ hoang lạnh của những đồng bào và đồng cảnh
mà chưa bao giờ nhìn lại (dù chỉ một lần) cho mãi đến khi tóc đã
đổi màu.
May mắn là không phải mọi kẻ tị nạn nào đều bạc
bẽo như nhau, và không ít người sống rất có tình; nhờ vậy, hôm nay
tôi mới có “lối” để về thăm chốn cũ.
Tôi rất thích bản nhạc Nha Trang Ngày Về (… ngồi đâу
tôi lắng nghe… Ƭôi như là con ốc, bơ νơ nằm trên cát. Chui sâu vào thân xác lưu
đầy…) dù không được quen biết bất cứ ai ở miền “thùy dương cát
trắng.” Tôi cũng không có mối tình nào ở Galang, dù có viết mấy câu
thơ, viết “dùm” cho những cô gái bị người tình phụ (mà dân ở đảo
gọi là Galang tình xù) nhưng không còn nhớ được toàn bài:
Xa anh trời vào hạ
Thư anh ngày một chậm
P. Galang VN Refugee Camp Circa 1988-91
More: http://www.keynote-engineers.net/PGalang/PGalang_RefugeeBoats_013.jpg.html
Lần lượt, trước sau, những chàng trai cùng những cô
gái ở tuổi đôi mươi (thưở ấy) đều đã “đi” định cư ở một quốc gia
thứ ba nào đó. Và (chắc) cũng chả có mấy ai, mấy khi, ngoái về
chốn cũ?
Galang, chiều nay, quanh tôi không một bóng người –
ngoài vài bầy khỉ nhỏ, và năm bẩy chú hưu sao (đứng ngơ ngác nhìn
khách lạ) trong một khu đất rộng, gần nơi trưng bầy mấy con tầu đã
đưa đám thuyền nhân đến hải đảo này.
Galang hoang vu, và hoang tàn quá. Tôi bước vào một
ngôi chùa, không có ai ráo trọi. Nhà thờ cũng vậy. Trống trơn. Tượng
Đức Mẹ Vô Nhiễm được che bởi một tấm bạt lớn phiá trên (ý hẳn để
cho ngài đỡ giãi dầu mưa nắng) nhưng e cũng chả có tác dụng chi
nhiều vì sự khắc nghiệt và khốc liệt của nắng mưa, nơi vùng nhiệt đới.
Cạnh đó là bức tượng thánh Giuse đã rớt mất một
bàn tay, ngó mà ái ngại.
Trong tấm biển chỉ dẫn (cũng đã rơi xuống đất từ
lâu) ngay ở cổng vào có ghi hàng chữ “Cao Dai Pagoda” nhưng chúng tôi
tìm mãi vẫn không thấy Thánh Thất nơi nào cả. Cho đến khi bước chân
vào gian nhà dùng làm Bảo Tàng Viện Thuyền Nhân thì tôi mới thấy
Galang vẫn còn chút … hơi thở nhẹ, nhờ tiếng nhạc nho nhỏ phát ra tự
bên trong. Cái gì chớ nhạc Việt thì tôi rành sáu câu, nhất là nhạc
sến, vậy mà tôi hoàn toàn không biết bài hát (lạ hoắc) này. Tôi chỉ
“cảm” được là nó rất sến (sến hết biết luôn) nhưng vẫn thấy vui
thích với cái ý nghĩ là mình –
một thằng vô cùng bạc bẽo – vẫn được Galang mở rộng vòng tay
(đón nhận) khi trở lại.
Thái độ rất thân thiện tử tế của nhân viên an ninh,
cũng như sự chỉ dẫn vui vẻ và tận tình của người trông coi những di
vật còn lại của thuyền nhân cũng khiến tôi vô cùng cảm động, dù
chúng tôi có bị trở ngại (ít nhiều) vì bất đồng ngôn ngữ. Tôi và anh
bạn hăng hái ký tên vào sổ lưu niệm, và sốt sắn hiến tặng hết cả
số tiền mà chúng tôi có sẵn trong người.
Lúc trở ra, tôi thật hân hoan khi thấy hai chiếc xe du
lịch (cùng với du khách) nối đuôi nhau vào trại – dù trời đã ngả
chiều. Phải vậy chớ. Không lẽ cả một trung tâm du lịch mà có mình
(ên) tụi tui thì coi sao được.
Tình trạng thưa vắng du khách ở Galang chắc đã bắt
đầu từ nhiều năm trước. Nhật báo Jakarta Post, số ra ngày 01 tháng 8 năm
2009, có bài viết (“Vietnamese Refugee Camp Still Open’) đề cập đến yêu sách
đóng cửa trại tỵ nạn (Galang) của nhà đương cuộc Hà Nội.
Bài báo này dẫn lời bà Nada Faza Soraya – Chánh Sự Vụ
Phòng Thương Mại Của Nam Dương – nói rằng khu trại rất quan trọng đối với hướng
dẫn viên du lịch, và họ không hề có ý muốn khai thác quá khứ đen tối của chính
phủ Việt Nam. (“There was no intention of exploiting the gloomy past of
Vietnamese government”).
Cùng thời điểm này, từ Galang, phóng viên Hồng Nga của
BBC cũng có bài tường thuật (nghe được vào ngày 5 tháng 8 năm 2009) về sự việc
này:
“Hai thập niên hiện diện của người Việt tại đây khiến
thông tin trại có thể sẽ đóng cửa vĩnh viễn, ngừng đón người tới thăm
khiến người dân địa phương ngỡ ngàng.”
“Lý do chính là từ
khi ngừng hoạt động, trại tỵ nạn Galang cũ đã trở thành một
địa chỉ du lịch khá phổ biến, mang lại thu nhập cho người bản địa.”
“Dư luận địa phương bày tỏ bất bình, trong khi có cáo
buộc chính phủ Việt Nam đã gây áp lực với Jakarta để làm công việc
này.”
Đồng thời, đại diện tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam,
ông Trần Đông cũng đã lên tiếng chỉ trích việc “âm thầm xóa bỏ dấu vết tội ác,
hủy hoại di tích lịch sử và nhân đạo thế giới tập đoàn đảng trị và tay sai Bắc
Kinh tại Hà Nội.”
Nhân đây, cũng xin được nói thêm đôi điều về cơ quan
thiện nguyện Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam (Archives of Vietnamese Boat People –
AVBP) qua lời của nhà văn Trùng Dương, sau chuyến đi thăm Galang của
chị, vào năm 2012:
“Hội AVBP, Web site tại http://www.vnbp.org/, được thành lập
từ năm 2004, nhằm tìm kiếm và trùng tu các mộ phần thuyền nhân, không phân biệt
có tên hay vô danh, ở rải rác các nơi trong vùng Đông Nam Á, đồng thời ghi dấu
lại các di tích thuyền nhân để các thế hệ sau biết mà tìm đến vì chính quyền Cộng
Sản Việt Nam cố tình muốn xoá bỏ những di tích lịch sử này, để đồng thời bạch
hoá tội lỗi của chế độ ngu muội hà khắc đã là nguyên do đẩy cả triệu người Việt
ra biển đi tìm một đời sống có tự do và nhân phẩm, với từ 200,000 tới nửa triệu
con người bị chết trên đường đi tìm một đồi sống có nhân phẩm. Sự hy sinh này
và phần mộ của những người còn may mắn có được nấm mồ chính là những chứng tích
của một giai đọan lịch sử cần được duy trì và bảo vệ.”
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên Thanh
Quang (RFA) nghe được vào hôm 17 tháng 10 năm 2013, ông Trần Đông – Giám
Đốc AVBP – cho biết thêm chi tiết:
Chúng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng tới cuối năm 2015 sẽ hoàn tất
công trình mộ phần thuyền nhân Việt Nam tại tất cả những nơi vừa nói. Hiện giờ
chúng tôi đang xúc tiến ráo riết tổ chức gây quỹ trong năm 2014 song song với
việc trùng tu mộ thuyền nhân trong 2014 và 2015. Chúng tôi rất hy vọng được sự
đóng góp giúp đỡ của tất cả đồng hương khắp nơi trong đợt gây quỹ lần cuối cùng
vào năm 2014 và có thể có những cuộc gây quỹ nhỏ nữa trong năm 2015 để hoàn tất
công tác trùng tu tất mộ thuyền nhân trong vùng Đông Nam Á vào cuối năm 2015.”
Tôi không hy vọng là Galang, trong tương lai gần, có
thể trở thành một công viên du lịch hấp dẫn hay một khu di tích lịch
sử – như nhiều người mong đợi vì điều này tùy thuộc hoàn toàn vào thái
độ của chính quyền địa phương, và ngoài tầm tay của cộng đồng người
Việt ở hải ngoại. Tuy nhiên, tôi tin chắc là VKTNVN “sẽ hoàn tất công tác
trùng tu 2500 mộ thuyền nhân rải rác khắp vùng Đông Nam Á vào cuối năm 2015” –
dù biết rằng đây chả phải là chuyện dễ dàng chi, và rất cần sự
góp sức của mọi người.
Đó là việc tối thiểu mà chúng ta có thể làm được,
và bắt buộc phải làm. Những người cầm quyền hiện nay ở VN không mong
gì hơn là chúng ta thất bại trong việc duy trì và bảo tồn “lịch sử
thuyền nhân.”
Nếu không có cái “lịch sử” bi tráng này và “những chứng tích của một giai đọan lịch sử cần
được duy trì và bảo vệ” thì cộng đồng thuyền nhân (hôm nay) và con cháu
của họ (sau này) nào có khác gì một đám người trôi sông lạc chợ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét