Gần đây, trên các blog bằng tiếng Việt, người ta thấy có một cuộc bàn cãi khá sôi nổi về vấn đề trí thức với sự tham gia của nhiều người, từ nhiều quan điểm khác nhau.
Tôi cho đó là một đề tài hay, hơn nữa, rất bổ ích. Nó cho thấy sự phản tỉnh của những người được gọi là trí thức tại Việt Nam về vị trí và chức năng của họ trong xã hội, nhất là ở thời đại mà truyền thông đại chúng phát triển mạnh mẽ và đất nước đang đối diện với rất nhiều vấn đề phức tạp như hiện nay. Nó đặt lại một vấn đề, tuy cũ, nhưng thật ra, chưa bao giờ được giải quyết một cách rốt ráo, do đó, chứa đầy những ngộ nhận. Những ngộ nhận ấy không những có hại về phương diện nhận thức mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của văn hóa, chính trị và xã hội Việt Nam.
Để thảo luận một cách nghiêm chỉnh, cần xác định, trước hết, khái niệm trí thức.
Ở đây, có mấy điểm cần được nhấn mạnh:
Thứ nhất, trí thức là một khái niệm khá mới. Ở Việt Nam: nó rất mới. TrongTừ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes năm 1651: Chưa có. Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của năm 1895: Cũng chưa có. Như vậy, từ trí thức chỉ xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 mà thôi. Điều đó cũng không có gì lạ. Trong tiếng Anh, intellectual, với tư cách tính từ, chỉ sự hiểu biết, chỉ xuất hiện từ cuối thế kỷ 14; với tư cách danh từ, chỉ trí tuệ, xuất hiện muộn hơn, vào cuối thế kỷ 16; và chỉ những người có học, xuất hiện càng muộn hơn, khoảng giữa thế kỷ 17.
Thứ hai, mặc dù khá mới, nội hàm khái niệm trí thức lại phát triển rất nhanh, do đó, bao gồm nhiều cách hiểu khác nhau. Trình bày những cách hiểu khác nhau ấy là một điều bất khả trong phạm vi một bài viết trên blog. Tôi chỉ xin giới hạn trong một câu hỏi nhỏ: Ai là trí thức?
Theo cách hiểu thông thường ở Việt Nam, được ghi rõ trong các từ điển tiếng Việt, trí thức là những kẻ, một, có ăn học; và hai, làm các nghề gọi là lao động trí óc.
Nhưng thế nào là người có ăn học? Ở đây lại có hai cách hiểu dựa vào hai tiêu chuẩn chính: bằng cấp và kiến thức. Tiêu chuẩn bằng cấp lại thay đổi theo thời gian: Trước, thời Pháp thuộc, có được bằng tú tài, hoặc, thậm chí, bằng Thành chung, đã có thể được xem là trí thức. Sau, theo đà phổ cập của giáo dục, trí thức được dùng để chỉ những người có bằng cử nhân hoặc trên cử nhân. Tiêu chuẩn kiến thức còn mơ hồ hơn. Làm cách nào để đo lường được mức độ hiểu biết của từng người. Với những người viết lách thì tương đối dễ: những điều họ hiểu biết được phô bày công khai trên các trang giấy. Nhưng với những người không viết lách? Không có cách gì biết được. Nên ai cũng tha hồ tự xưng là trí thức.
Khái niệm lao động trí óc cũng quá rộng. Ở Việt Nam, dưới ảnh hưởng của Liên Xô, xã hội được phân chia thành nhiều giai cấp khác nhau: Ở trên, thuộc thành phần thống trị, có tầng lớp quý tộc, tư sản và địa chủ; phía dưới, thuộc thành phần bị trị và bị bóc lột, có công nhân và nông dân. Ở giữa hai thành phần ấy, có một tầng lớp trung gian, gọi là trí thức tiểu tư sản. May mắn là những người cộng sản, ở một số thời điểm nào đó, vì không muốn đánh mất cái chất xám trong thành phần trung gian ấy nên ở đâu cũng coi họ là một đồng minh tốt. Chính vì vậy, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nào, cũng có ba tầng lớp được xem là nòng cốt, bao gồm: công dân, nông dân và trí thức. Trong ba tầng lớp ấy, trí thức bị xem là bấp bênh và khả nghi nhất. Lý do là vì, một, về phương diện kinh tế, họ thuộc thành phần tiểu tư sản hơn là vô sản; về phương diện lịch sử, họ thường đi với giai cấp thống trị; và về phương diện ý thức hệ, họ thường bị sa đà vào lý thuyết, tách lìa quần chúng và thực tiễn, hơn nữa, dễ bị ngả nghiêng giao động khi đối diện với khó khn hay thử thách. Chính vì thế, những người cộng sản vừa sử dụng trí thức lại vừa nghi ngờ và khinh rẻ trí thức. Cả Lenin lẫn Mao Trạch Đông đều xem trí thức như là… cứt. Ở Việt Nam, dường như không có lãnh đạo nào bỗ bã như thế. Nhưng cũng có ít ai thực sự coi trọng trí thức. Họ xem trí thức, nói như nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, thời đầu đổi mới, như “con nít”, luôn luôn cần được nắm tay dẫn dắt và dạy dỗ. Tất cả những điều ấy làm cho giới trí thức nói chung vừa tự hào vừa tự ti. Tự hào về kiến thức của mình, nhưng lại tự ti về vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử. Để vượt qua mặc cảm tự ti, hầu hết đều tự nguyện đem hết tâm trí và sức lực của mình để phục tùng và phục vụ lãnh đạo, từ đó, hình thành lớp trí thức phò chính thống, nói theo ngôn ngữ của Phạm Thị Hoài.
Khi Ngô Bảo Châu, trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần, cho “trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình.Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội”, ông không nói điều gì khác ngoài tâm lý và tâm thế của một mẫu trí thức phò chính thống tiêu biểu ở Việt Nam. Ở phương diện này, không thể không khen ngợi Ngô Bảo Châu: mặc dù học hành và làm việc ở nước ngoài khá lâu, ông vẫn giữ được “tính dân tộc” rất cao, cả trong cách diễn dịch lẫn cách hành xử liên quan đến trí thức.
Nói như vậy cũng là nói, liên quan đến vấn đề trí thức, cách hiểu ở Việt Nam và ở Tây phương rất khác nhau. Khác nhau từ căn bản: định nghĩa trí thức. Nếu ở Việt Nam, người ta xem trí thức là những người có ăn học và lao động trí óc, thì, trong tiếng Anh, ví dụ, Từ điển Oxford giải thích, tính từ intellectualcó hai nghĩa chính: một, liên quan đến tri thức (of the intellect); và hai, liên quan đến sở thích hoặc khả năng giải quyết những vấn đề thuộc tâm trí như nghệ thuật, ý tưởng vị ý tưởng hơn là những vấn đề thực dụng (of interested in or able to deal with things of the mind - eg the arts, ideas for their own sake - rather than practical matters). Xin lưu ý đến cụm từ “ý tưởng vị ý tưởng” ở trên. Trong cuốn Intellectuals and Society, xuất bản năm 2009, Thomas Sowell cho đó chính là yếu tính của trí thức. Ông cho trí thức là những người làm những việc liên quan đến ý tưởng: “Công việc của một nhà trí thức bắt đầu và kết thúc với ý tưởng” (An intellectual’s work begins and ends with ideas; tr. 3 & 283). Trong hai yếu tố Sowell đã nêu, yếu tố sau quan trọng hơn yếu tố trước. Khác với loài vật, hầu như loài người lúc nào cũng bắt đầu công việc với một ý tưởng nào đó. Một thằng móc túi ngoài phố, chẳng hạn, trước khi đưa tay ra móc túi người khác, bao giờ cũng bắt đầu bằng một ý tưởng: móc túi. Cụ thể hơn, hắn sẽ nghĩ đến một kế hoạch móc túi thật nhanh và thật gọn. Hơn nữa, hắn cũng nghĩ cả đến kế hoạch thoát thân nếu bị phát giác. Đó là chưa kể, một cách tự phát, từ trong vô thức, hắn có hẳn một quan niệm sống: bất chấp đạo đức và liêm sỉ, miễn là có lợi, hoặc ít nhất, tồn tại. Nhưng không phải ai cũng kết thúc công việc bằng một ý tưởng, kể cả những người gọi là lao động trí óc. Ví dụ, với các kỹ thuật gia, ngay cả những kỹ thuật gia thiên tài như Bill Gates và Steve Jobs, kết quả cuối cùng của công việc không phải là ý tưởng mà là những chiếc máy vi tính cũng như các sản phẩm liên quan đến kỹ thuật vi tính. Tất cả các kỹ sư đều giống như vậy: kết quả cuối cùng của họ là máy móc. Những người làm việc nhắm đến cái gì khác ngoài ý tưởng như vậy nhiều vô cùng, bao gồm phần lớn những người lao động trí óc: với các bác sĩ, đó là việc trừ và phòng bệnh; với các nhà kinh doanh, đó là lợi nhuận; với các chính trị gia, đó là các chính sách và quyền lực; với các nhà kỹ nghệ, đó là sản phẩm. Theo Sowell, tất cả những người ấy đều không phải là trí thức. Ngay cả phần lớn những người thuộc giới hàn lâm hay truyền thông, những người hầu như cả đời chôn vùi trong sách vở với các ý tưởng, cũng không hẳn là trí thức: Họ là những kẻ tiêu thụ ý tưởng (consumers of the ideas of intellectuals) hơn là những người sản xuất ý tưởng. Họ có thể thuộc giới trí thức (intelligentsia) nhưng bản thân họ chưa chắc đã là trí thức (intellectual) (tr. 5).
Như vậy, khái niệm trí thức ở Tây phương - qua sự đúc kết của Thomas Sowell - rất hạn chế. Theo cách hiểu đó, hầu hết những người Việt Nam chúng ta quen gọi là trí thức đều không phải là trí thức.
Kết luận ấy hẳn sẽ khiến nhiều người ngỡ ngàng. Nhưng không bắt đầu như vậy, mọi cuộc tranh cãi về trí thức và nhiệm vụ của trí thức biến thành nhảm nhí.(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét