Sơn Trung tóm lược/WEF
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (the World Economic Forum-WEF) gần đây đã công bố báo Outlook on Global Agenda 2015, trong đó nêu bật 10 xu hướng ảnh hưởng nhiều nhất đến kinh tế và xã hội trên thế giới năm 2015. Theo những chuyên gia của WEF, trong năm tới, thế giới phải đối mặt với một số thách thức quan trọng như: bất bình đẳng thu nhập ngày càng tăng, tình trạng thất nghiệp, gia tăng căng thẳng về địa-chiến lược, việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên của hành tinh của chúng ta và biến đổi khí hậu… VHNA xin giới thiệu cùng bạn đọc tóm lược nội dung chính của 10 xu hướng nêu ra trong báo cáo của WEF.
1.Sự bất bình đẳng về thu nhập ngày càng sâu sắc
Bất bình đẳng là một trong những thách thức quan trọng của thời đại chúng ta. Đặc biệt, bất bình đẳng về thu nhập là một trong những khía cạnh nổi bật nhất của một vấn đề rộng lớn hơn và phức tạp hơn, bao gồm sự bất bình đẳng về cơ hội và mở rộng đến giới tính, dân tộc, người khuyết tật, tuổi tác và nhiều vấn đề khác. Điều này ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở các nước phát triển và đang phát triển, những người nghèo nhất chiếm tới ½ dân số và thường chỉ kiểm soát dưới 10% tài sản. Đây là một thách thức chung mà cả thế giới phải giải quyết.
Trong khi sự thật là tăng trưởng của kinh tế có nhích lên, nhưng thế giới vẫn tồn tại những vấn đề trầm trọng như sự nghèo đói, suy thoái môi trường, tình trạng thất nghiệp dai dẳng, bất ổn chính trị, bạo lực và xung đột. Những vấn đề này thường liên quan chặt chẽ đến sự bất bình đẳng.
Sự nguy hiểm vốn có của vấn đề bất bình đẳng đang bị xem nhẹ và bỏ qua là rất rõ ràng. Những người, nhất là giới trẻ, bị loại trừ ra khỏi trào lưu xã hội đi đến cảm giác bị tước đoạt quyền lợi và dễ dàng tham gia vào các cuộc xung đột. Điều này, đến lượt nó, làm giảm tính bền vững của tăng trưởng kinh tế, làm suy yếu sự gắn kết và an ninh của xã hội, giảm sự khuyến khích việc tiếp cận công bằng và sử dụng tài sản chung trên toàn cầu, làm suy yếu nền dân chủ và phá vỡ hy vọng về sự phát triển xã hội bền vững và hòa bình.
Theo báo cáo điều tra 2014 Pew Global Attitudes Survey, trong bảy quốc gia vùng Cận Sahara được thăm dò ý kiến có trên 90% số người được hỏi cho rằng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo là một vấn đề lớn; tại Mỹ, gần 80% có cùng quan điểm. Các nhà lãnh đạo chính trị cũng ngày càng chia sẻ những mối quan tâm này. Chúng ta đã nhìn thấy những chính sách tốt hơn tại một số nước, chẳng hạn như Rwanda, Brazil và Mexico với quyền tiếp cận đến các nguồn tài nguyên đang được chia sẻ đồng đều hơn và đã có những thay đổi trong xã hội, ủng hộ sự tiến bộ trong đời sống của các nhóm bị thiệt thòi. Nhưng để làm được điều này trên một quy mô lớn hơn đòi hỏi các thể chế quốc gia mạnh hơn ở nhiều nước, có nguồn lực thích hợp, lãnh đạo có trách nhiệm hơn và việc hoạch định chính sách tốt hơn. Một số quốc gia đã đạt được tiến bộ trong việc giải quyết các nguyên nhân về cơ cấu của sự bất bình đẳng thông qua một loạt các chính sách chú trọng tới công bằng và dựa trên quyền lợi.
Để giải quyết bất bình đẳng một cách có hiệu quả, các nước cần phải có một chương trình tích hợp, xem xét vấn đề này về xã hội, kinh tế và môi trường, trong đó có sự tiếp cận với giáo dục, y tế và các nguồn lực xã hội. Trung tâm của các giải pháp này là một nhóm các biện pháp can thiệp nhằm thúc đẩy sự tiếp cận bình đẳng tới các nguồn lực và dịch vụ, cùng với tăng trưởng kinh tế toàn diện, tạo việc làm phù hợp và sinh kế cho tất cả mọi người trong xã hội. Để tăng cường tác động, cần có các số liệu tách bạch, chất lượng cao và minh bạch nhằm hướng đối tượng đầu tư và các nguồn tài nguyên vào những lĩnh vực cần thiết nhất.
Không thể quá đề cao vai trò của các doanh nghiệp như là nhân tố để hướng tới bình đẳng hơn về thu nhập. Số liệu từ 2014 Pew Global Attitudes Survey cho thấy rằng mọi người có xu hướng cho rằng các chính phủ phải chịu trách nhiệm về khoảng cách giàu nghèo. Tuy nhiên, chỉ riêng các chính phủ cũng không thể giải quyết được vấn đề này. Giải quyết sự bất bình đẳng không chỉ là trách nhiệm mà còn là một cơ hội. Giải quyết sự bất bình đẳng tốt cho doanh nghiệp vì nó tạo ra cơ cấu tiêu dùng mới, do đó mở rộng thị trường và dich vụ, tăng cơ hội thu được lợi nhuận, đặc biệt là đối với phụ nữ. Những nỗ lực giảm sự bất bình đẳng là một trách nhiệm của nhiều bên liên, đòi hỏi sự phối hợp hành động ở tất cả các cấp độ, từ địa phương tới quốc gia, từ khu vực tới toàn cầu.
Chúng ta đều biết những rủi ro và điểm yếu trong cuộc sống hàng ngày trên khắp thế giới. Chúng ta biết những gì chúng ta cần đó là: những nền kinh tế bao trùm, trong đó cả nam giới và phụ nữ được tiếp cận với việc làm bền vững, chứng nhận pháp lý, dịch vụ tài chính, cơ sở hạ tầng và an sinh xã hội, cũng như những xã hội mà tất cả mọi người có thể đóng góp và tham gia vào quản trị ở cấp độ địa phương, quốc gia và toàn cầu. Đã đến lúc phải hành động, để không bỏ sót một ai và đưa tất cả mọi người tiến lên phía trước với một cuộc sống đàng hoàng.
2. Tăng trưởng thất nghiệp dai dẳng
Thuật ngữ ‘tăng trưởng thất nghiệp dai dẳng’ đề cập đến hiện tượng trong đó các nền kinh tế thoát khỏi suy thoái và thể hiện sự tăng trưởng nhưng lại khi chỉ duy trì – hoặc, trong một số trường hợp, giảm mức độ việc làm. Chuyển đổi và dịch chuyển việc làm gắn liền với tiến bộ công nghệ đang diễn ra nhanh hơn và thậm chí có thể cho thấy tác động mạnh hơn so với thời gian trước đây và các nhiệm vụ mang lại vai trò quan trọng và có ý nghĩa cho tất cả mọi người trở nên vô cùng quan trọng. Tuy nhiên điều này cũng tạo ra một cơ hội rất lớn để tận dụng lợi thế về chi phí vay vốn thấp hiện nay cũng như nguồn lao động dồi dào chưa được sử dụng và tiến hành các dự án quy mô lớn về xây dựng và sửa chữa cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các nền kinh tế phát triển và các nước mới nổi lên.
Số liệu về người lao động trong độ tuổi từ 25 đến 54 – nhóm chủ chốt của lực lượng lao động – cho thấy tỷ lệ phần trăm của những người không có việc làm đã tăng gấp hơn ba trong vài chục năm qua và đang có xu hướng không ngừng tăng lên. Nếu xu hướng này tiếp tục, thì có thể một thế hệ bắt đầu từ thời điểm hiện nay, một phần tư số lượng những người trung niên sẽ bị mất việc vào bất kỳ thời điểm nào. Ngay cả Trung Quốc, nước đã từng đạt mức tăng trưởng chưa từng có về xuất khẩu và khả năng cạnh tranh cũng cho thấy việc làm đã bị suy giảm trong vòng 20 năm qua do công nghiệp hóa nhanh đồng thời với việc áp dụng công nghệ và tự động hóa. Đây là một xu hướng dài hạn có thể quan sát thấy trên toàn thế giới, ngay cả trong số các nền kinh tế mới nổi khi các nước này đi vào con đường công nghiệp hóa thông thường. Các robot và các cuộc cách mạng in ấn 3D có thể thúc đẩy xu hướng này đi xa hơn, nhờ chi phí đầu vào khá thấp của những công nghệ đột phá làm cho chúng có thể dễ dàng thâm nhập đến tất cả các nước, bao gồm cả các nền kinh tế đang phát triển.
Tự động hóa chắc chắn là yếu tố góp phần lớn nhất. Tất nhiên công nghệ có thể giúp tạo ra công ăn việc làm – nhưng quá trình này không phải là tự động. Trong lịch sử Mỹ, hai Tổng thống Roosevelt và Wilson đã nhận ra sự thách thức này và đem lại sự thay đổi về vai trò của chính phủ liên bang trong việc giải quyết các nhu cầu của người lao động có thu nhập trung bình và dưới mức trung bình. Các yếu tố có vai trò ảnh hưởng thời đó gồm có việc thành lập Tập đoàn Tennessee Valley Authority để cung cấp điện, hay việc xây dựng hệ thống đường cao tốc liên bang hoặc xây dựng các mạng cáp quang. Tất cả những công trình đó đều góp phần đưa lại sự tiến bộ.
Xét về tổng thể, con người có cuộc sống khá hơn nhờ tiến bộ công nghệ. Nhưng nếu không hành động, chúng ta có nguy cơ không cải thiện thêm được mức sống và nhiều người sẽ bị bỏ lại đằng sau.
Chúng ta hoàn không thể biết rõ các chính sách mà các chính phủ cần phải thực hiện để giải quyết trình trạng thất nghiệp. Thời đại này nay chưa xuất hiện nhưng nhân vật kiểu như Bismark hay Gladstone, những người có thể đứng ra để giải quyết thách thức này và đưa chính sách của các chính phủ đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Tuy nhiên một trong những lĩnh vực chủ yếu cần được thay đổi đó là giáo dục. Vì vậy, các loại hình trường học từ phổ thông đến cao đẳng hay đại học cần ưu tiên vào thực hiện các nhiệm vụ mà máy móc không thể làm, đó là: hợp tác, sáng tạo và dẫn đường, đồng thời ít chú trọng hơn đến những công việc mà máy móc đã có thể làm như là giám sát, tính toán và thực hiện.
Mặt tích cực của xu hướng này là những người mất việc làm do năng suất lao động tăng sẽ được giải phóng để làm những công việc trong các lĩnh vực khác. Ví dụ như đang có một cơ hội rất lớn để sử dụng thời kỳ này chuyển sang khắc phục sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng về viễn thông đang bị hư hỏng, xuống cấp. Ngoài ra, lãi suất vay vốn đang ở mức thấp kỷ lục trong khi các tài nguyên chưa sử dụng và nhân công thất nghiệp trong lĩnh vực xây dựng lại cũng đang ở mức cao.
3. Thiếu hụt vai trò lãnh đạo
Một con số đáng ngạc nhiên đó là 86% những người trả lời Khảo sát về Chương trình nghị sự toàn cầu (the Survey on the Global Agenda) đồng ý rằng hiện nay trên thế giới đang có một cuộc khủng hoảng về vai trò lãnh đạo. Điều này có thể do cộng đồng quốc tế phần lớn đã thất bại trong việc giải quyết bất những vấn đề lớn trên toàn cầu của những năm gần đây. Đó là sự thất bại trong việc đối phó với hiện tượng ấm lên toàn cầu, tiếp đó là hầu như không giải quyết được tình trạng suy giảm của nền kinh tế thế giới, vốn đã gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng ở Bắc Mỹ và châu Âu. Trong khi đó, thế giới lại để cho tình trạng bạo lực tiếp tục dai dẳng Trung Đông, một khu vực đang gây ra nhiều mối lo lo ngại. Một câu hỏi đặt ra là tại sao thế giới lại đang thiếu đi vai trò lãnh đạo?
Đó là do trong quá trình phát triển của mình, bộ máy của các chính phủ trên thế giới đã bị yếu đi từ nhiều thập kỷ qua bởi sự cấu kết của các phe phái, sự chuyên chế và tình trạng tham nhũng tràn lan. Ví dụ như ở Trung Quốc, 90% số người được khảo sát nói rằng tham nhũng là một vấn đề; một số công trình nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng có tới 78% số người trả lời ở Brazil và 83% ở Ấn Độ coi lãnh đạo không trung thực là một vấn đề nghiêm trọng.
Càng tìm hiểu sâu về vấn đề này, người ta càng thấy khó khăn hơn để tìm thấy những nhân vật có thể nổi lên như làm một nhà lãnh đạo mạnh mẽ; người ta bị buộc phải chơi trò chơi theo cách nó được tạo ra – đó là phải vì lợi ích của hệ thống và hiếm khi vì lợi ích của nhân dân. Ở nhiều nước, những người có quyền lực thể chế để đột phá chỉ là các nhà lãnh đạo quân sự mạnh mẽ hay những nhân vật cấp tiếp như Narendra Modi ở Ấn Độ. Tuy nhiên, với sự gia tăng của các phương tiện truyền thông xã hội độc lập, những cộng đồng có đời sống dân chủ nhanh chóng bị vỡ mộng với sự thái quá của các nhà cầm quyền quân sự.
Đối với các nhà lãnh đạo tôn giáo, 58% số người được hỏi có quan ngại rằng những người này có thể dễ sa vào tình trạng lạm dụng địa vị của họ, và 56% cho rằng họ sẽ không không giúp được gì trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Điều này có thể là do sự bùng phát của bạo lực tôn giáo gần đây cùng với sự gia tăng của chủ nghĩa khủng bố nên mọi người đang trở nên thận trọng với các nhà lãnh đạo tôn giáo và cho tôn giáo là một vấn đề cá nhân.
Câu hỏi đặt ra là vậy các nhà lãnh đạo cần kỹ năng gì để giành lại niềm tin từ người dân của mình? Những người trả lời khảo sát xác định một số đức tính cần thiết của một nhà lãnh đạo như: có quan điểm toàn cầu; có kế hoạch và kinh nghiệm; kỹ năng giao tiếp mạnh mẽ; ưu tiên hơn cho công bằng và hạnh phúc của xã hội so với tốc độ tăng trưởng tài chính; có sự đồng cảm; can đảm; đạo đức; và tinh thần hợp tác. Bên cạnh những yếu tố này, những nhà lãnh đạo tốt nhất biết rằng họ phải là người trung gian, lắng nghe và tính đến những ý kiến của những người khác trước khi đưa ra quyết định.
Điều quan trọng là chúng ta cần nuôi dưỡng một nền trong văn hóa mà mọi người nhìn thấy sự liêm chính và đồng cảm là những tính cách quan trọng để nhân tài có thể nẩy sinh. Tiếp đó, quyền lực của người dân bình thường sẽ phát triển, những điều tuyệt vời sẽ xảy ra và các nhà lãnh đạo lớn sẽ nổi lên.
4. Sự cạnh tranh về địa chiến lược tăng lên
Trong những năm sau chiến tranh lạnh, có quan điểm phổ biến là thế giới đã chuyển hướng tới sự đồng thuận về tự do và dân chủ. Sự tan vỡ của khối Xô Viết, sự hội nhập của Nga và Trung Quốc vào hệ thống kinh tế toàn cầu cùng làn sóng mới của quá trình chuyển đổi dân chủ, từ Mỹ Latinh đến Đông Âu, khiến nhiều người tin rằng cuộc tranh đua siêu cường đã được hoàn tất. Toàn cầu hóa, thị trường tự do và “sự phụ thuộc lẫn nhau ‘của nước sẽ làm cho cuộc các chiến tranh ít có khả năng xảy ra hơn, trong khi vai trò lớn hơn đã được dự báo cho các thể chế đa phương như Liên hợp quốc để đối phó với những vấn đề mang lại nguy cơ cho con người.
Thế nhưng điều này đã không giảm nhẹ mối quan ngại về vấn đề an ninh mà ngược lại từ năm 1990 trở đi đã xuất hiện những thách thức mới được nói đến như là sự bất đối xứng. Đó là, thay vì lo sợ các quốc gia hùng mạnh và đối đầu lẫn nhau, thế giới lo lắng về sự yếu kém của nhà nước, sự tan vỡ của các quốc gia, hoặc sự tiếp cận toàn cầu của mạng lưới khủng bố, phi nhà nước.
Tuy nhiên, ngày nay sự cạnh tranh mới giữa các quốc gia chính là một mối quan tâm. Theo kết quả của Khảo sát về Chương trình nghị sự toàn cầu, những người trả lời ở cả Châu Á và Châu Âu xếp sự gia tăng về cạnh tranh địa chiến lược là xu hướng toàn cầu quan trọng thứ hai. Trong khi chiến tranh lạnh kiểu cũ có ít khả năng tái xuất hiện,thì tình hình gần đây cho thấy có sự thay đổi về hình thức và tính chất của sự tác động lẫn nhau giữa các nước. Địa chính trị – và chính sách thực dụng – một lần nữa chiếm vị trí trung tâm, với tiềm năng tác động rất rộng lớn đối với kinh tế, chính trị và xã hội trên toàn cầu.
Minh họa rõ ràng cho những thay đổi này là quan hệ căng thẳng và ngày càng xấu đi giữa Nga và phương Tây. Những nỗ lực của chính quyền Obama để cải thiện quan hệ giữa Mỹ và Nga đã mất đi khi mà sự sụp đổ của chính phủ Ukraina và sự trỗi dậy của phong trào ly khai làm nẩy ra lên cuộc đụng độ của thế giới quan cơ bản đối lập. Viễn cảnh của “Châu Âu trọn vẹn và tự do va chạm với một thế giới của ‘trò chơi có tổng bằng không’ và khu vực ảnh hưởng” (Trò chơi có tổng bằng không là trò chơi mà người thắng được hưởng-ND). Với việc áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế, và cố gắng của Nga để đứng đầu một Liên minh Á-Âu (a Eurasian Union) làm một đối trọng với Liên minh châu Âu, trong thập kỷ tiếp theo có thể được đánh dấu bởi sự phàn nàn của Nga về ‘sự bao vây’ và cố gắng của nước này nhằm thay đổi các quá trình đã diễn ra những năm bị coi là yếu đuối và dễ bị tổn thương. Đồng thời, phương Tây có thể được rút ra khỏi sự phụ thuộc kinh tế với Nga, vốn đã từng được ca ngợi là sự đảm cho hòa bình và ổn định khu vực.
Những diễn biến có tiềm năng quan trọng hơn xảy ra ở châu Á. Sự thay đổi trong trật tự chính trị toàn cầu là điều hiển nhiên cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc và vai trò không chắc chắn của nước này trên sân khấu thế giới. Theo một nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Pew, gần một nửa số người được hỏi ở tất cả các khu vực đều tin rằng Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành siêu cường hàng đầu thế giới, hay sẽ cuối cùng cũng sẽ vượt Mỹ.
Động lực của chính sách thực dụng giữa Nhật Bản và Trung Quốc – được thúc đẩy bởi sự mất mát đáng kể về niềm tin và chủ nghĩa dân tộc dâng cao, các thể chế yếu kém và những tranh chấp hàng hải – đang ảnh hưởng đến nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba thế giới, và đe dọa trực tiếp đến nền kinh tế lớn nhất là Mỹ. Đối phó với trỗi dậy của Trung Quốc bởi các nước láng giềng và bởi bản thân Trung Quốc là vấn đề rất quan trọng trong những thập kỷ tới.
Tình hình ở Trung Đông cũng tồi tệ hơn với sự sụp đổ của một hệ thống quốc gia được dựng nên một cách vội vàng bởi các nước chiến thắng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhóm nổi dậy xuyên biên giới, Nhà nước Hồi giáo, với mục đích thiết lập một Vương quốc Hồi giáo (Caliphate) ở các phần của khu vực này – có nguy cơ làm cho các nỗ lực hòa bình hòa giải truyền thống không còn thích hợp. Tình hình càng trầm trọng hơn bởi các cường quốc khu vực khai thác sự hỗn loạn này – thậm chí thúc đẩy nó – vì lợi ích riêng của họ.
Thế giới mà chúng ta thấy ngày là sự cạnh tranh đa chiều và dai dẳng và sự suy yếu đồng thời của các mối quan hệ đã được thiết lập, một xu hướng đang lấn dần vào nhiều lĩnh vực và các vấn đề phức tạp khác. Trong một trật tự thế giới sôi động và vô định hình này, chúng ta phải đối phó với các những thách thức của bất đối xứng và đối xứng. Mối quan hệ đang thay đổi giữa các cường quốc trên thế giới đã làm giảm sức mạnh chính trị có sẵn để giải quyết các vấn đề chung như biến đổi khí hậu và y tế trên toàn cầu. Chưa cần phải nói đến các cuộc khủng trật tự lần thứ hai, sự hỗn loại đã trầm trọng thêm.
Trong bối cảnh của quá trình toàn cầu đầy tiềm năng (mà thực chất là quá trình đảo ngược hay giã từ toàn cầu hóa), chủ nghĩa dân tộc dâng cao và có sự hoài nghi sâu sắc về chủ nghĩa đa phương, thì các bài học quan trọng nhất từ năm 2014 là chúng ta có được là không thể vẫn cứ thụ động. Thế giới cần sự hợp tác quốc tế nhiều hơn. Các tổ chức liên chính phủ khu vực và toàn cầu sẽ được đưa vào các thử nghiệm lớn hơn; trong khi đó các tổ chức như Diễn đàn kinh tế thế giới phải tiếp tục tạo ra một nơi hội tụ của khu vực tư nhân và khu vực công, xã hội dân sự và giới học thuật để làm cho các nhà các nhà lãnh đạo chính trị hiểu được tầm quan trọng của tư duy hợp tác. Hình thức cạnh tranh địa chính trị hiện nay không cải thiện được tình hình cho các bên tham gia mà còn đe dọa gây tổn hại cho tất cả chúng ta.
5. Sự suy yếu của nền dân chủ đại diện
Kể từ khi nền kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng năm 2008, đã có một sự xói mòn niềm tin vào các thể chế và quá trình chính trị. Người dân hiện nay đặt niềm tin vào công ty hơn so với các nhà lãnh đạo của mình mặc dù họ không đặc biệt tin tưởng vào khu vực tư nhân. Điều này được chứng minh với chỉ số tin tưởng Edelman Trust Barometer mới nhất cho thấy sự tin tưởng toàn cầu về giới kinh doanh chỉ còn đạt 58% trong khi niềm tin dành cho các chính phủ đã xuống mức 44%. Đây cũng là tiếng nói của những người trẻ tuổi trên thế giới.
Trong hai năm qua, sự phản đối của dân chúng diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Hy Lạp và Tây Ban Nha ở trong tình trạng bất ổn do những hậu quả của cuộc khủng hoảng khu vực đồng euro. Người dân Ukraine chiếm đóng trung tâm Kiev. Chỉ còn rất ít quốc gia từ Bắc Phi tới Trung Đông chưa bị ảnh hưởng bởi trào lưu Mùa xuân Ả Rập, khi những công dân của thời đại kỹ thuật ngày càng tự tin hơn để huy động khi đối mặt với tình trạng mất dân chủ. Hồng Kông là nơi mới nhất để trải nghiệm các cuộc phản đối trên quy mô lớn. Thật vậy, kết quả khảo sát cho thấy ở Mỹ La-tinh xu hướng này có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới. Điều này đã được minh chứng ở Brazil, với mùa hè năm 2014, khi người ta chứng kiến những biến động bởi những người biểu tình phản đối sự chênh lệch về thu nhập và chi tiêu công dành cho vòng chung kết bóng đá World Cup và Olympic Games 2016.
Mặc dù các cơ chế được đưa ra cho các hệ thống đã dân chủ hơn trước đây, nhưng vẫn có một sự thiếu liên kết cơ bản giữa công dân thế giới và các quan chức được bầu ra, những người được cho là đại diện của họ. Nhờ internet, công chúng có thể xác định con người với cùng giá trị và sự sợ hãi, trao đổi ý kiến, và xây dựng các mối quan hệ nhanh hơn bao giờ hết. Các chính phủ thì chưa được như vậy vì chúng ta đang dùng những thể chế của thế kỷ 19 với tư duy thế kỷ thứ 20 để cố gắng để giao tiếp với công dân thế kỷ 21. Các chính phủ được bầu lên, giải tán và bầu lại chỉ để theo đuổi những chương trình nghị sự ngắn hạn, trong khi các chu kỳ đổi mới và xây dựng lòng tin với cử tri đòi hỏi đầu tư dài hạn. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi mọi người thấy rằng hệ thống này như là đã bị đổ vỡ. Cách làm chính trị kiểu cũ chắc chắn sẽ thay đổi, nhưng nền dân chủ đại diện chính nó sẽ không không thay đổi- và cũng không cần phải thay đổi. Với sức mạnh có thể có của thế giới trực tuyến ngày nay, một cấu trúc dân chủ kiểu truyền thông xã hội, nơi mọi ngươi có thể chia sw3 và thảo luận ý kiến của họ ngay lập tức, cũng có thể dễ dàng dẫn đến tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ.
Chính vì thế, nền dân chủ đại diện cần phải tự hiện đại hóa bản thân và có sự tham gia tích cực của công dân trong quá trình đưa ra quyết định. Thay vì tự nhận là người duy nhất giải quyết các vấn đề, các chính phủ cần đặt mình vào vị trí là cơ quan nêu ra những vấn đề mà xã hội phải đối mặt, và sau đó cố gắng tạo ra môi trường thích hợp cho doanh nghiệp tư nhân và giới học viện để tìm ra giải pháp, cung cấp các dữ liệu cần thiết, có chính sách và tài chính để hỗ trợ các bên liên quan. Nếu những đại biểu được bầu lên làm điều này, họ sẽ khôi phục lại niềm tin của công chúng.
Để làm điều đó, các chính phủ phải đối xử với mọi người như là những các thể và giao tiếp với họ thông qua các phương tiện thích hợp nhất. Phương tiện truyền thông xã hội không phải là thuốc chữa bách bệnh cho điều này và, khi được sử dụng bởi các tổ chức truyền thống như nhà nước, thì có xu hướng cho thấy sự không tương xứng giữa những thông điệp được đưa ra và thực tế. Mặc dù vậy, công nghệ có tiềm năng đảm bảo mọi người cảm thấy được thực sự đại diện. Tất cả các loại hình của các quá trình dân chủ có thể được tăng cường nhờ công nghệ: bầu cử trực tuyến, kiến nghị thông qua mạng, và các cuộc khảo sát qua điện thoại thông minh chỉ là ba ví dụ cụ thể.
Trên hết, các nhà lãnh đạo phải sử dụng được công nghệ – và có kiến thức chuyên môn sâu rộng hơn – để thực sự hiểu sự ưu tiên, sự lo ngại và động cơ của người dân, và sau đó truyền đạt một cách rõ ràng các chính sách được coi là sẽ giải quyết những yếu tố này. Khi các chính phủ không còn có vai trò trung tâm của tất cả mọi việc, và mọi người cảm thấy rằng họ đã trở thành những người giải quyết vấn đề, thì mọi thứ sẽ thay đổi. Điều chúng ta đang nhìn thấy không phải là cái chết của nền dân chủ; mà đúng hơn là nền dân chủ đại diện phải thích ứng với thời đại chúng ta.
6. Trình trạng ô nhiễm tăng lên ở các nước đang phát triển
Quá trình công nghiệp của các nước đang phát triển đang tạo ra sự ô nhiễm môi trường. Giải pháp khắc phục đòi hỏi một cuộc cách mạng về công nghệ và trí tuệ; một lộ trình thay thế đảm bảo cho sự thịnh vượng kinh tế trong khi vẫn bảo tồn các nguồn tài nguyên và giới hạn lượng khí thải carbon cần được thực hiện trước khi quá muộn.
Các nước đang phát triển đã học được rất nhiều về các mô hình thương mại, cơ sở hạ tầng và công nghệ từ Châu Âu và Bắc Mỹ. Những mô hình có hiệu quả kinh tế, nhưng lượng khí thải carbon trên thế giới không cho phép chúng ta tiếp tục đi theo con đường này.
Ô nhiễm gia tăng ở các nước đang phát triển được xếp hạng là xu hướng toàn cầu quan trọng nhất thứ sáu trong năm nay – và là xu hướng quan trọng đứng thứ 3 tại châu Á. Theo Viện Tài nguyên Thế giới, Trung Quốc trở thành nước phát thải khí nhà kính lớn nhất từ năm 2005 và vẫn còn ở vị trí này, tiếp theo là Mỹ và Liên minh châu Âu, Brazil và Ấn Độ đứng thứ năm và thứ tám trong số những nước gây ô nhiễm lớn nhất. Ô nhiễm không khí ở Trung Quốc góp phần gây ra cái chết sớm cho 1,2 triệu người trong năm 2010.
Các nước đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các thảm họa thời tiết có liên quan đến sự gia tăng căng thẳng về nguồn nước do sự ấm lên toàn cầu. Ngay cả khi nhiệt độ tăng thêm 2 ° C so với thời kỳ tiền công nghiệp – mức thấp nhất thế giới sẽ trải qua – cũng sẽ dẫn đến suy sụt giảm từ 4-5% GDP của châu Phi và Nam Á và các nước đang phát triển được dự kiến sẽ gánh chịu 75-80% chi phí tác động.
Chúng ta cần phải tìm cách để phát triển nhưng phải giảm việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Điều này có nghĩa là đầu tư vào những hệ thống sản xuất điện không sử dụng than đá, như năng lượng tái tạo, hạt nhân và khí đốt, và loại bỏ dần hình thức phát điện hiệu suất thấp. Tiến bộ xã hội cần phải được đo bởi một cái gì đó khác hơn so với chỉ số tăng trưởng GDP nhưng không tính đến các điều kiện môi trường hoặc chất lượng của cuộc sống.
Vai trò Trung Quốc sẽ ngày càng quan trọng, nên các nước đang phát triển phải gắn với các mục tiêu đặt ra về năng lượng tái tạo, đảm bảo quản lý tốt những ngành công nghiệp gây ô nhiễm cao và thúc đẩy năng lượng sạch. Là nước phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất, các chính sách của Trung Quốc rất quan trọng trong việc giải quyết hiện tượng nóng lên toàn cầu, và cũng có ảnh hưởng lớn đối với các nước đang phát triển khác. Các nước đang phát triển phải làm nhiều việc để làm giảm phát thải khí nhà kính và sẽ chịu những tác động của sự ấm lên toàn cầu, nhưng trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng không thể chỉ của riêng các nước này; Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới ước tính các nước có thu nhập cao phải chịu trách nhiệm cho hai phần ba lượng khí CO2 thải vào khí quyển kể từ năm 1850.
Có hai cách cơ bản mà các nước phát triển cần để giúp cho quá trình này. Đó là cần có nguồn tài trợ cho các nước đang phát triển, cung cấp các phương tiện để hỗ trợ cho sự thay đổi, và hợp tác để phát triển công nghệ các-bon thấp mới. Điều quan trọng là các nước như Trung Quốc phải xây dựng năng lực nghiên cứu và phát triển năng lượng mặt trời, tuabin gió, hạn chế khí carbon và hợp tác quốc tế có thể giúp các nước đang phát triển tham gia nhiều hơn trong chuỗi cung ứng.
Điều quan trọng là cần phải hiểu rằng một khi các giải pháp carbon cao đã được thực hiện là, thì rất khó để thay thế. Điều này có nghĩa là các quyết định được thực hiện ngày hôm nay về hệ thống sản xuất điện và thiết kế các thành phố và hệ thống vận tải có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Hiện tại, đang có tiềm năng để có một tác động lớn, nhưng cánh cửa cơ hội sẽ đóng lại rất sớm.
7. Các sự kiện thời tiết cực đoan xảy ra ngày càng nhiều
Các sự kiện thời tiết cực đoan là hậu quả chính của biến đổi khí hậu,và đang trở nên thường xuyên hơn, mạnh mẽ và thất thường. Điều cần thiết không chỉ cứu trợ khi có thảm họa xảy ra, mà là việc thích ứng với những tác động lớn do những hiện tượng này sinh ra, như dịch bệnh, tình trạng bất ổn chính trị và căng thẳng kinh tế. Rõ ràng là việc thích ứng – hoặc lý tưởng hơn là ngăn ngừa các sự kiện thời tiết khắc nghiệt – sẽ dẫn đến một kết quả tốt hơn cho tất cả mọi người.
Gần đây,các sự kiện thời tiết khắc nghiệt xảy ra ngày càng nhiều, gây ra sự tàn phá rất lớn. Tất cả các châu lục đều bị ảnh hưởng, từ một trong những cơn bão mạnh nhất trên thế giới tấn công Philippines và cơn lốc xoáy trên phạm vi rộng nhất chưa từng thấy ở Mỹ , đến nạn hạn hán khắc nghiệt ở Trung Phi, Brazil, Australia và một loạt các trận lụt lớn ở Pakistan.
Báo cáo về giảm thiểu biến đổi khí hậu của Tiểu ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu năm 2014 cung cấp bằng chứng mới về sự liên quan giữa các hiện tượng thời tiết cực đoan với biến đổi khí hậu. Hội Khí tượng học Mỹ-the American Society -kết hợp các công trình nghiên cứu từ 92 nhà khoa học để xem xét 16 sự kiện thời tiết lớn nhất từ năm 2013 và kết luận rằng hiện tượng ấm lên toàn cầu làm tăng mạnh nguy cơ xảy ra của sóng nhiệt mạnh. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta vẫn thất bại để giải quyết vấn đề này. Sự thiếu lãnh đạo vai trò quốc tế chắc chắn ảnh hưởng đến sự phát triển của xu hướng này.
Sự trớ trêu và tàn nhẫn của biến đổi khí hậu chính là những tổn thất bởi các sự kiện thời tiết khắc nghiệt nhất đều đổ lên vai những người nghèo nhất của xã hội. Họ là những người ít có khả năng để đối phó và cũng không có khả năng mua được bảo hiểm. Hơn 90% số người trả lời Khảo sát về Chương trình nghị sự toàn cầu cho rằng châu Á sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Các sự kiện thời tiết khắc nghiệt đang thay đổi nhận thức về biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, khi nói về về sự thay đổi khí hậu, người ta thường ít chú ý đến những ảnh hưởng thực sự của nó mà chỉ chú ý nhiều hơn đến vấn đề phát thải khí, đặc biệt là xung quanh vấn đề sản xuất năng lượng và carbon. Thật không may, điều này có nghĩa là hầu hết các cuộc thảo luận biến đổi khí hậu chỉ thu hẹp thành cuộc cuộc thảo luận về quản lý carbon. Quản lý carbon chắc chắn là những thách thức quan trọng trong việc giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu, nhưng trong một thế giới được xác định bởi tác động khí hậu và sự thích ứng với nói – thì chỉ tập trung vào quản lý carbon là chưa đủ.
Chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa và đây là cơ hội tuyệt vời cho khu vực tư nhân để tận dụng lợi thế. Vì những thách thức của việc ứng phó cũng là những thách thức của sự phát triển, nên chúng ta cần đặt vấn đề về đầu tư. Hiện nay, thế giới chỉ mới tập trung vào giải quyết thảm họa bằng những việc làm như gây quỹ, trợ cấp cho các nạn nhân và các khu vực bị thiên tai hết từ lần này sang lần khác.
Ngoài ra, cần phải đầu tư vào các chính sách có lợi ngay cả khi không trực tiếp vì biến đổi khí hậu – ví dụ như lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Kế đến là những chính sách ít tốn kém mà có hiệu quả lớn dành cho các hoạt động phòng chống và cảnh báo sớm thiên tai. Cuối cùng là đầu tư cho lợi ích dàn hạn cho các công nghệ bền vững và thích ứng, đầu tư cho năng lượng sạch. Chi phí cho việc khắc phục các thảm họa lớn cũng có thể hạn chế nếu có những chính sách phòng chống và bảo vệ tốt.
Tóm lại, giải pháp là tăng cường khả năng phục hồi trước khi thảm họa xảy ra. Điều đó có nghĩa là đầu tư vào những quá trình mà có ích trong tương lai, thay vì chỉ trong ngắn hạn. Chi phí có thể cao và tốc độ thay đổi có thể chậm, nhưng thành quả dài hạn sẽ rất ấn tượng: cho nền kinh tế quốc dân, cho kinh doanh, và chắc chắn cho những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất, những người sẽ chịu đau khổ và phải trả giá nếu chúng ta không có những biện pháp này.
8. Chủ nghĩa dân tộc gia tăng
Thế giới đã chứng kiến cuộc trưng cầu dân ý về độc lập cho vùng Québec của Canada và mới đây là sự kiện tương tự ở Scotland. Với 45% số người bỏ phiếu cho sự độc lập, Scotland sẽ là một quốc gia được tách ra trong thời gian tới.
Giống như trong thời kỳ của Cuộc cách mạng công nghiệp khi đó người dân quay sang chủ nghĩa dân tộc chính trị để bảo vệ và che chở cho các cộng đồng của họ chống lại các mô hình phát triển không đồng đều và thiếu công bằng, hiện nay đang có sự xuất hiện sự trở lại của xu thế này – và vận động xung quanh những tình cảm cũ và bản sắc truyền thống của các cộng đồng; cho dù đó là ở Catalonia hoặc Bỉ hoặc Lombardy, những người li khai đòi bảo vệ chống lại những vấn đề như sự gián đoạn kinh tế, biến động xã hội do toàn cầu hóa, vốn đang đe dọa làm mất đi những giá trị, lối sống và truyền thống đã có từ lâu đời.
Người Scotland, trước đây cũng chính là những người đi đầu trong Kỷ nguyên Khai sáng, hiện đang đấu tranh cho lợi ích của sự chia sẻ và hợp tác, đồng thời họ cũng đã thành biểu tượng trong thời đại toàn cầu hóa. Tuy nhiên, trong giai đoạn này thách thức này thậm chí còn to lớn hơn trước. Trong thế kỷ vừa qua, sự chia sẻ quyền lợi của họ được thực hiện trong một nhà nước nhiều dân tộc. Ngày nay, Scotland là một phần của thế giới, ở đó việc tìm nguồn cung ứng hàng hóa toàn cầu đã thay thế nguồn cung ứng quốc gia, và các dòng chảy tài chính và nguồn lực toàn cầu cũng đã thay thế cho nguồn lực quốc gia.
Liệu các nước láng giềng với các nền văn hóa, truyền thống và bản sắc khác nhau, có thể tồn tại không phải chỉ trong một nhà nước đa dân tộc có giới hạn – hoặc ngay cả trong một môi trường toàn cầu mở ? Liệu những người Scotland có thể cho thấy rằng họ không cần phải cắt đứt các mối liên hệ để phát triển mạnh trong thế giới hiện đại, và có thể tìm cách sống chung với nhau thông qua không chỉ sự chia sẻ quyền lợi đối với các dịch vụ và lợi ích mà còn bằng cách chia sẻ chủ quyền? Đó là điều mà họ phải làm thông qua một Quốc hội Scotland mạnh nằm trong khuôn khổ Vương quốc Anh và châu Âu.
9. Gia tăng sức ép về nước sạch
Do hàng loạt vấn đề như tăng trưởng dân số nhanh, nguồn cung cấp nước bị hạn chế và mức độ nghèo đói cao, Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh và Nigeria là những nước sẽ bị hưởng nặng nề nhất bởi xu hướng này. Căng thẳng về nguồn nước do tài nguyên hạn hẹp là phổ biến ở nhiều quốc gia ở châu Á, trong khi căng thẳng về nguồn nước do tài chính hạn chế sẽ phổ biến ở nhiều nước châu Phi. Theo báo cáo của các chuyên gia khảo sát thuộc Diễn đàn Kinh tế Thế giới, vùng Cận Sahara Châu Phi là khu vực bị ảnh hưởng nhất, tiếp theo sau là châu Á.
Mặc dù có nhiều trở ngại phải đối mặt, nhưng không phải là không có chỗ cho sự lạc quan. Nhiều công việc sẽ được thực hiện để tăng hiệu quả sử dụng nước trong nông nghiệp, vốn chiếm tới hơn 70% lượng nước sử dụng. Nhận thức về cuộc khủng hoảng nước toàn cầu cũng cũng sẽ tăng lên trong năm tới, và khu vực tư nhân cũng sẽ cùng phối hợp để có thể đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong việc giúp đỡ các cộng đồng nơi họ hoạt động, đặc biệt là tại các thị trường mới nổi.
Các cuộc khủng hoảng y tế liên quan đến HIV / AIDS, sốt rét, bệnh lao và bây giờ là đại dịch Ebola đã thúc tỉnh cộng đồng toàn cầu. Quan niệm sai lầm rằng tất cả mọi người bị ảnh hưởng đều nghèo như nhau và chờ đợi kiểu từ thiện từ trên xuống dưới là một trong những trở ngại lớn nhất ngăn cản sự tiếp cận phổ cập đối với nước sạch. Mọi người phải nhanh chóng nhận ra rằng, cuộc khủng hoảng nước sạch đối với 750 triệu người trong chúng ta là một thực tế.
Biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ là một yếu tố lớn trong tương lai, vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phân bổ nguồn nước. Khi mực nước biển dâng lên ở Bangladesh, xâm nhập mặn sẽ là vấn đề với nhiều người dân sống trong vùng thấp – đặc biệt là khi họ có rất ít khả năng để xử lý nước. Khi căng thẳng về nguồn nước tăng trên toàn thế giới, sẽ có hậu quả chính trị. Các chính phủ phải đóng một vai trò trung tâm. Ở nhiều nước phát triển, nơi ý chí chính trị và nguồn tài chính thường thường thuận lợi hơn cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng dài hạn, trong khi ở các nước đang phát triển, không có gì là lại về sự thiếu thốn trong đầu tư cho cơ sở hạ tầng dài hạn và thậm chí người nghèo vẫn thường bị bỏ qua ngay cả khi hệ thống cơ sở hạ tầng này đi qua các khu nhà ổ chuột.
Với tin tưởng rằng truy cập nguồn nước với giá cả phải là một quyền cơ bản của con người, người nghèo cần được hỗ trợ để có thể tiếp cận với các công cụ tài chính thích hợp và khả năng kết nối với cơ sở hạ tầng cấp nước.
10. Tầm quan trọng y tế trong nền kinh tế ngày càng tăng lên
Có một mối tương quan được biết rất rõ là khi nền kinh tế của một quốc gia được cải thiện, thì sức khỏe của người dân được cải thiện. Trong khi đó, tương quan ngược lại cũng đúng -đó là cải thiện sức khỏe của người dân trong nước có thể trực tiếp dẫn đến tăng trưởng kinh tế, bởi vì sẽ có thêm nhiều người người khỏe mạnh tham gia vào lực lượng lao động.
Y tế là một thách thức cho tất cả các quốc gia; trong một nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Pew Research Center, có tới khoảng 85% số người được hỏi tin rằng y tế là một vấn đề của nước của họ. Hệ thống y tế công cộng có hiệu quả là rất cần thiết trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc người bệnh và đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật. Ví dụ như thuốc lá là một trong những tai họa lớn nhất chúng ta phải đối mặt. Khi tiến hành cuộc chiến chống lại các loại bệnh tật như ung thư phổi và bệnh tim mạch, chúng ta phải tìm ra nguyên nhân; điều đầu tiên là cần các chiến dịch giáo dục và các cơ chế khác nhằm ngăn chặn mọi người hút thuốc lá. Nếu kế hoạch để cải thiện sức khỏe trong một quốc gia chỉ đơn giản là xây dựng một thêm vài bệnh viện thì không giải quyết được vấn đề.
Về dịch Ebola, thế giới cần phải tập trung tất cả các nguồn lực của mình trong để kiểm soát dịch bệnh này, hoặc hàng trăm ngàn người có thể chết.
Nhu cầu cấp thiết để giải quyết Ebola ở Tây Phi là để xác định những cá nhân bị nhiễm bệnh, đưa họ vào các trung tâm điều trị và theo dõi các địa chỉ liên lạc để giữ cho bệnh không lây lan. Điều quan trọng nữa là những người bị chết vì căn bệnh này không được động chạm hoặc rửa ráy bởi những người khác mà không có các trang bị bảo hộ cần thiết do nguy cơ lây nhiễm là rất cao.
Thế giới đang tập trung nguồn lực để tham gia chống lại dịch bệnh Ebola, Viện Y tế Quốc gia ở Mỹ, đang làm việc với Cục Quản lý Thực phẩm và Dược để nhanh chóng đưa ra các loại vắc xin hứa hẹn vào thử nghiệm lâm sàng, và đẩy nhanh các nỗ lực để thử nghiệm phương pháp điều trị mới. Nhưng tốc độ là rất quan trọng và cần thiết có sự thamg gia của tất cả các bên liên quan.
Đối với các nền kinh tế phát triển, sự già đi của dân số tạo gánh nặng cho mạng lưới y tế. Trong khi đó, ở các quốc gia đang phát triển, thiếu thốn nguồn lực hoặc cơ sở hạ tầng không đầy đủ đang là một thách thức. Tại nhiều nước thu nhập thấp và trung bình, các loại bệnh truyền nhiễm là vấn đề trung tâm. HIV / AIDS, lao và sốt rét gây thiệt hại lớn, cả về người và là suy yếu lực lượng lao động. Ngân hàng Thế giới báo cáo rằng 50% của sự chênh lệch tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia đang phát triển và phát triển được cho là do sức khỏe kém và tuổi thọ thấp. Công dân của một quốc gia càng khỏe mạnh, thì lực lượng lao động càng có hiệu quả hơn; sức khỏe của con cái tốt hơn, tỷ lệ sinh thấp hơn, và do đó có ít người phụ thuộc ít hơn. Tiêm chủng và các chiến lược phòng ngừa các bệnh ở trẻ em cũng rất quan trọng.
Các loại bệnh không lây nhiễm ở các nước đang phát triển đang ngày càng tăng. Đây là những bệnh thường liên quan đến các nước giàu như ung thư, tăng huyết áp, tiểu đường và bệnh tim. Tuy vậy, cần phải chú ý hơn đến các bệnh này và sự xuất hiện của chúng ở những nước mà người ta thường nghĩ rằng bệnh nhiễm trùng mới là mối quan tâm chính.
SƠN TRUNG
tóm lược từ báo cáo Outlook on the Global Agenda 2015
của Diến đàn kinh tế thế giới WEF
Ảnh trong trang: Reuters
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét