Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015

HENRY KISSINGER - HƯỚNG TỚI MỘT TRẬT TỰ CHO CHÂU Á: ĐỐI ĐẦU HAY ĐỐI TÁC? (PHẦN 1)

Henry Kissinger
 Đỗ Kim Thêm dịch
Lời người dịch: Henry Kissinger (1923), Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (1969 – 1973), Cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (1973 – 1977), tác giả Hiệp định Paris (1973) và đoạt giải Nobel Hoà Bình (1973). Hiện nay ông là Chủ tịch của Công ty Tư vấn Quốc tế Kissinger Associates Inc. Tác phẩm mới nhất của ông là World Order: Reflections on the Character of Nations and the Course of History, Pengiun Press, 2014, 432 pp. Nguyên tác của bản dịch là CHAPTER 6 - Toward an Asian Order: Confrontation or Partnership?, World Order, 212- 233.
* * *

Henry Kissinger
Một đặc điểm chung các quốc gia châu Á là họ có ý thức mình là biểu tuợng cho những nước "đang trỗi dậy" hay là "hậu thuộc điạ". Tất cả các nước này đã cố vượt qua một di sản của thời kỳ thuộc địa cai trị bằng cách tự khẳng định về một bản sắc dân tộc hùng cường. Các nước này cùng chia sẻ một niềm tin là một trật tự cho thế giới ngày nay đang tái lập một tình trạng quân bình sau khi phương Tây đột nhập bất thường trong nhiều thế kỷ vừa qua, nhưng phương Tây đã rút ra nhiều bài học to tát khác nhau từ trong các cuộc phiêu lưu lịch sử của họ. Khi các quan chức cao cấp cố gợi lại những quyền lợi cốt lõi, một số người trong giới này hướng về truyền thống văn hoá dị biệt và lý tưởng hoá các thời vàng son khác nhau.
Theo các hệ thống chính trị trong châu Âu vào thế kỷ XVIII và XIX, việc bảo tồn một tình trạng quân bình về cán cân quyền lực - và do ảnh hưởng của việc duy trì nguyên trạng - được xem là ưu điểm. Tại châu Á, hầu hết mỗi quốc gia đều bị thúc dục bởi những tính năng động của chính mình. Tự tin là mình đang trổi dậy, các nước này hoạt động trong một niềm tin là thế giới chưa khẳng định một vai trò toàn diện cho mình. Thậm chí ngay cả không có một quốc gia nào tìm hiểu về chủ quyền tối thượng và phẩm giá của các quốc gia khác, tất cả cùng kiên quyết đeo đuổi một chính sách ngoại giao theo kiểu một là thắng và hai là thua, việc đồng loạt thực thi nhiều chương trình xây dựng uy tín quốc gia đưa ra một biện pháp làm thay đổi cho một trật tự trong khu vực. Với sự tiến hoá của nền công nghệ hiện đại, các cường quốc của châu Á đã trang bị cho mình bằng nhiều công xưởng vũ khí quân sự có sức công phá nhiều hơn cả khả năng của một quốc gia châu Âu hùng mạnh nhất vào thế kỷ XIX có được, nhờ thế họ còn gây thêm những nguy hiểm do việc tính toán sai lạc.
Vì thế, tổ chức của châu Á là một thách thức cố hữu cho một trật tự của thế giới. Do tình trạng nhận thức của một số cường quốc và việc theo đuổi quyền lợi quốc gia, đúng ra là do cán cân của quyền lực như là một hệ thống của các nước lớn đã định hình cho một cơ chế về một trật tự mà nó đã phát triển trước đây. Những thử nghiệm của các nước này là chuyện khả thi, cho dù nó có nằm trong quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương hay không, khi nó đem sẽ lại một khuôn khổ hoà bình cho việc tương tác của nhiều lợi ích đã được minh định.

Một Trật Tự Quốc Tế Của Châu Á và Trung Quốc

Trong tất cả những khái niệm về một trật tự cho thế giới ở châu Á, Trung Quốc đã vận hành một ý tưởng bền bỉ nhất, định nghĩa rõ ràng nhất và sâu xa nhất theo hoà ước Westphalian [1]. Trung Quốc cũng đã theo đuổi một cuộc hành trình phức tạp nhất, từ thời văn minh cổ đại thông qua đế chế cổ điển, cho đến cách mạng Cộng sản, rồi đạt đến tình trạng một cường quốc hiện đại - một tiến trình sẽ có tác động sâu đậm đến nhân loại.
Từ khi Trung Quốc thống nhất như là một thực thể chính trị duy nhất vào năm 221 trước Công nguyên cho đến đầu thế kỷ XX, vị thế trung tâm của Trung Quốc trong trật tự của thế giới đã ăn sâu vào trong suy nghĩ của giới lãnh đạo đến độ mà không có một từ nào trong Hoa ngữ để diễn đạt cho ý tưởng này. Chỉ qua cách suy tưởng nội quan mà các học giả định nghĩa về một hệ thống triều cống của Trung Quốc trong tinh thần thần phục “Dĩ Hoa Vi Trung“. Trong khái niệm truyền thống này, Trung Quốc tự nhận thức mình như là một chính quyền duy nhất có chủ quyền của thế giới. Hoàng đế của Trung Quốc tự xem mình là biểu tượng có tầm vóc hoàn vũ và có vai trò then chốt giữa con người và thần thánh. Tầm nhắm của vua không phải là Trung Quốc, một quốc gia có chủ quyền, - có nghĩa là đặt lãnh thổ dưới quyền cai trị trực tiếp của mình - mà còn "tất cả trong thiên hạ" và trong đó Trung Quốc tạo nên phần chính yếu và văn minh: "một vương quốc ở trung tâm", nhằm gây nguồn cảm hứng và làm thăng hoa cho phần còn lại cuả nhân loại.
Theo quan điểm này, một trật tự của thế giới phản ảnh một hệ thống quyền lực rộng khắp hoàn vũ, không chỉ đem lại một tình trạng quân bình của các quốc gia có chủ quyền đang cạnh tranh. Mỗi một xã hội, khi được kết thân, được xem là có một loại quan hệ triều cống với Trung Quốc, một phần vì dựa vào sự gần gũi văn hoá, nhưng không ai có thể đạt đến tinh trạng bình đẳng với Trung Quốc. Các vương quốc khác không là những nước đồng đẳng có chủ quyền, mà là những học trò nghiêm túc nhất trong nghệ thuật lãnh đạo, phấn đấu hướng tới văn minh. Ngoại giao không phải là một tiến trình thương lượng giữa nhiều quyền lợi tối thượng, nhưng là một loạt các nghi lễ được trù liệu cẩn trọng mà các nước ngoài có cơ hội xác quyết đuợc vị thế của mình trong hệ thống phân cấp quyền lực trong toàn cầu. Theo cổ thư của Trung Quốc, để giữ đúng theo quan điểm này, thì những gì mà ngày nay gọi là "chính sách đối ngoại" thì khi xưa là một lĩnh vực thuộc Bộ Lễ, được xác định các sắc thái trong mối quan hệ triều cống, và Vụ Biên Phòng chuyên trách quản lý mối quan hệ với các bộ lạc du mục. Cho mãi đến giữa thế kỷ XIX, Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa hề được thành lập và sau đó là nhăm lo cho việc đối phó với kẻ xâm lăng phương Tây. Thậm chí các quan chức coi nhiệm vụ của mình như là cách thực hành theo truyền thống của công tác quản lý người man rợ, không có gì được họ coi như là một chính sách ngoại giao theo hệ thống Westphalian. Một Bộ mới mang danh hiệu "Vụ Quản lý Quốc tế Sự vụ", có hàm ý là Trung Quốc không tham gia kết ước trong các chính sách ngoại giao liên quốc.
Mục tiêu của hệ thống triều cống là thúc đẩy lòng tôn trọng, không thu tóm lợi lộc kinh tế hay chế ngự xã hội các nước ngoài bằng quân sự. Một thành tựu kiến trúc ấn tượng nhất của Trung Quốc là Vạn lý Trường thành kéo dài với khoảng hơn năm ngàn dặm do Hoàng đế Tần Thủy Hoàng khởi công. Ông là người đánh bại tất cả các đối thủ bằng quân sự, kết thúc thời Chiến Quốc và thống nhất Trung Quốc. Đó là một di chúc huy hoàng về một chiến thắng quân sự, nhưng cũng có những giới hạn cố hữu của nó trong việc biểu thị quyền lực rộng lớn, cùng gắn liền với ý thức về khả năng bị tổn thương. Từ ngàn năm nay, Trung Quốc cố tìm cách thu hút và lôi kéo những kẻ đối nghịch nhiều hơn là cố đánh bại họ bằng những sức mạnh quân sự. Dù có những phân tích cơ bản cho thấy là Trung Quốc là một cường quốc có ưu thế quân sự, một vị quan thượng thư thời nhà Hán (206 B. C- A.D. 220) đã mô tả “năm miếng mồi“ mà ông đề nghị để quản lý các bộ lạc từ Hung Nô cho đến biên thùy Tây Bắc Trung Quốc:
“Tặng cho họ … quần áo và xe ngựa để làm mờ mắt họ, tặng cho họ cao lương mỹ vị để làm câm miệng họ, tặng nhạc và dâng gái cho họ để làm bùi tai họ, cho họ nhà cao cửa rộng, kho thóc và gia nhân để lo cho đầy dạ dày của họ ... và đối với kẻ đến hàng phục, nhà vua (nên) bày tỏ ân huệ cho họ bằng cách bày ra yến tiệc tiếp đãi, đích thân nhà vua phải hầu rượu và thực phẩm cho họ để làm họ mềm lòng. Những cách này có thể được gọi chung là năm miếng mồi ngon.“
Một đặc điểm nổi bật trong những nghi lễ ngoại giao của Trung Quốc là lễ khấu đầu, - qùy gối và để đầu chạm đất để công nhận quyền tối thượng của Hoàng đế - đó là một sự hạ mình, điểm chắc chắn là nghi thức này là một bước cản trở cho việc bang giao với các nước tân tiến phương Tây. Nhưng khấu đầu là hành vi tự nguyện có tính cách tượng trưng: Đó là lòng tôn trọng biểu lộ của một người không bị chinh phục khi khiếp sợ. Trong những trường hợp như thế, giá trị triều cống cho Trung Quốc thường vượt quá mức, nếu so với giá trị các quà đáp lễ của nhà vua.
Theo truyền thống, Trung Quốc cố tìm cách chế ngự về phương diện tâm lý bằng những thành quả hay thái độ ứng xử của mình, - thảng hoặc có xen kẻ qua những cuộc hành quân nhằm dạy cho kẻ man rợ ngoan cố một “bài học“ và khiến họ phải tôn kính. Cả hai mục tiêu chiến lược và phương cách cơ bản để thu phục tâm lý qua một cuộc xung đột có vũ trang này đã được minh chứng gần đây trong chiến cuộc giữa Trung Quốc với Ấn Độ năm 1962 và với Việt Nam năm 1979, cũng như những phương cách mà Trung Quốc xác nhận những quyền lợi cốt lõi của họ đối với các lân quốc.
Mãi cho đến nay, Trung Quốc không là một xã hội mang sứ mệnh truyền giáo theo như nghiã của phương Tây về thuật ngữ này. Trung Quốc cố tìm cách tạo ra sự khâm phục, không tạo sự thay đổi, họ không bao giờ làm sai đường lối tinh tế này. Nhiệm vụ của họ là tạo thành quả mà họ kỳ vọng là ngoại bang sẽ hiểu ra và thừa nhận. Đối với một nước khác thì việc trở thành một người bạn, kể cả là bạn vong niên, đó là chuyện khả thi, nhưng họ sẽ không bao giờ được coi là bạn đồng đẳng với Trung Quốc. Chuyện trớ trêu là chỉ có hai nước ngoại gần đạt được một tình trạng tương tự này lại là những kẻ đi chinh phục. Một trong những đặc điểm kỳ diệu của đế quốc văn hoá trong lịch sử là có hai dân tộc chinh phục Trung Quốc; đó là Mông Cổ vào thế kỷ XIII và Mãn Châu vào thế kỷ XVII; - cả hai bị thuyết phục phải chấp nhận đặc điểm chủ yếu về văn hoá Trung Quốc, vì để làm cho việc cai trị dễ dàng một dân tộc quá đông và quá cương ngạnh, trong khi Trung Quốc giả định về tính ưu việt văn hoá của mình. Xã hội Trung Quốc, dù bị đánh bại, những đã đồng hoá được những kẻ đi chinh phục đến mức độ mà các phần lớn trong lãnh thổ nhà bị coi như là theo Trung Quốc từ truyền thống. Trung Quốc không cố tìm cách xuất khẩu hệ thống chính trị của mình, đúng hơn, Trung Quốc nhìn thấy các nước khác tìm đến họ. Theo ý nghĩa này, Trung Quốc mở rộng không bằng chinh phục mà do sự thẩm thấu.
Trong kỷ nguyên hiện đại, vì theo quan điểm về tính ưu việt văn hoá của mình, nên những đại biểu của phương Tây đã bày tỏ việc đưa Trung Quốc tham gia vào hệ thống thế giới thuộc về châu Âu, mà hệ thống này trở thành một cấu trúc cơ bản cho một trật tự cho thế giới. Họ gây áp lực với Trung Quốc nên vun bồi mối quan hệ với các nơi khác trên thế giới bằng cách trao đổi sứ thần, cho tự do mậu dịch và mang lại nhiều hạnh phúc hơn cho dân chúng với việc hiện đại hoá nền kinh tế và mở cửa xã hội để chấp nhận tín ngưỡng Thiên Chúa giáo.
Những gì mà phương Tây quan niệm như một tiến trình khai sáng và kết ước thì được Trung Quốc xem là một cuộc tấn công. Trước tiên, Trung Quốc cố tìm cách lẫn tránh rồi sau đó chống đối triệt để. Khi George Macartney, đặc sứ Anh Quốc đầu tiên đến Trung Quốc vào cuối thế kỷ XVIII, ông có mang theo một vài phẩm vật đầu tiên của cuộc Cách mạng Công nghiệp và bức thư của Hoàng đế Georg III đề nghị cho tự do mậu dịch và thiết lập sứ quán thường trú cho hai nước tại Bắc Kinh và Luân Đôn. Chiếc tàu của Trung Quốc đưa vị sứ thần này đi từ Quảng Châu đến Bắc Kinh kết đầy hoa có mang biểu ngữ đề chữ xem ông như là "Sứ thần Anh quốc triều cống cho Hoàng đế Trung Quốc". Vị sứ thần bị thải hồi kèm theo một lá thư gởi cho Hoàng đế nước Anh để giải thích rằng không có vị sứ thần nào được phép lưu trú tại Bắc Kinh, bởi vì “châu Âu gồm có nhiều nước khác ngoài qúy quốc, nếu từng nước một và tất cả các nước cùng xin được có đại biểu tại triều đinh, thì làm sao hoàng triều có thể chấp thuận được? Đó là chuyện bất khả thi.“ Hoàng đế không thấy có nhu cầu cho việc mua bán nào vượt qua giới hạn số lượng nhỏ bé đã được quy định, bởi vì Anh quốc không có mặt hàng gì được Trung Quốc ưa chuộng:
“Dù xoay chuyển trong một thế giới rộng lớn, nhưng trước mắt cụ thể, Trẩm có một mục tiêu là duy trì sự cai trị tốt đẹp và hoàn thành mọi nhiệm vụ của nhà nước, các mục tiêu xa lạ và tốn kếm đều không làm cho Trẩm quan tâm. Nếu Trẩm ra lệnh cho tiếp nhận các phẩm vật triều cống do qúy quốc gởi tới, đó chỉ là vì Trẩm chiếu cố với tinh thần là những phẩm vật này từ xa gởi tới... Như sứ thần của qúy quốc cũng có thể tự thấy được là Trung Quốc có tất cả mọi thứ hàng.“
Sau khi Napoleon bại trận, khi từng bước mở rộng ngoại thương, nước Anh thử tìm một cách khác để mở cửa giao dịch, phái một đặc sứ thứ nhì cùng với những đề xuất tương tự. Phô diễn hải lực của Anh quốc trong chiến tranh với Napoléon đã không làm thay đổi được cách đánh giá của Trung Quốc về sự mong muốn trong quan hệ ngoại giao. Trong khi sứ thần William Amherst không chịu tham dự lễ khấu đầu, xin lỗi vì lấy cớ là ông chưa có bộ phẩm phục dự chầu, nhiệm vụ của ông bị thải hồi, và nước Anh không còn thiết tha gì về bất cứ một nỗ lực ngoại giao nào khác. Nhà vua gởi một thông điệp cho Hoàng tử Nhiếp chính của Anh quốc để giải thích với giọng như là "Đại chuá tể trong thiên hạ", Trung Quốc không thể bị phiền nhiễu bởi vì phải đưa mỗi vị sứ thần man rợ đi vào trong một nghi lễ trang nghiêm. Sử liệu của hoàng gia ghi nhận là "Qúy quốc từ đại dương xa xôi đến để đề xuất lòng trung thành của mình và ao ước đạt được trình độ văn minh, “nhưng, (như một ấn phẩm của cơ quan truyền giáo của phương Tây vào thế kỷ XIX đã dịch lại sắc chỉ này):
"Từ nay trở đi, không cần gởi thêm một đặc sứ nào từ phương xa tới, mà kết quả chỉ là phí sức cho chuyến đi. Nếu Qúy quốc có thể, nhưng tâm có khuynh hướng là tùng phục, thì Qúy quốc được phép gởi sứ bộ đến hoàng triều vào bất cứ lúc nào; đó là cách đích thực để tiến tới văn minh. Để Qúy quốc có thể tuân phục vĩnh viễn, nay Trẫm ban chiếu chỉ này."
Nếu so với chuẩn mực cuả ngày nay thì những lời cảnh báo này dường như là quá kiêu ngạo - và xúc phạm quá mức đối với một nước đã duy trì tình trạng quân bình tại châu Âu và có thể tự xem mình là cường quốc tiên tiến về công nghiệp, kinh tế và hải quân - Hoàng đế tự biểu lộ với cung cách theo như lý tưởng về vị thế của mình trong thế giới mà mình đã chinh phục từ ngàn năm nay và các dân tộc láng giềng bị khiến tối thiểu là phải tuân chiều.
Các cường quốc phương Tây, trong sự xấu hổ của mình, đã mang những vấn đề lên trên vấn đề tự do mậu dịch, khi họ kiên quyết lập luận dựa theo quyền nhập khẩu không bị hạn chế - như là thành quả của tiến bộ phương Tây -, để họ bán bạch phiến, một sản phẩm gây tác hại hiển nhiên nhất. Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh đã xao lãng về một nền công nghệ quốc phòng, một phần là vì họ không bị ai thách thức trong một thời kỳ dài, mà chủ yếu vì quân đội chiếm vị thế thứ yếu theo quan niệm trật tự xã hội của Khổng giáo, như họ diễn đạt qua câu nói: “Sắt tốt không dùng để làm móng tay, người tốt không trở thành lính giỏi". Ngay khi bị các cường quốc phương Tây tấn công, nhà Thanh xuất tiền trong ngân quỹ quốc phòng vào năm 1893 để trùng tu một chiếc tàu làm bằng cẫm thạch rực rỡ trong cung điện muà hè của hoàng gia.
Do lúc đang bị áp lực quân sự nặng nề nhất thời vào năm 1842, Trung Quốc ký các thoả ước tương nhượng các yêu sách của phương Tây. Nhưng Trung Quốc không từ bỏ ý thức độc tôn của mình và chiến đấu triệt thoái trong ngoan cường. Sau khi ghi được một chiến công có tính cách định đoạt trong chiến tranh 1856-58 (chống lại việc một chiếc tàu có đăng ký tại Anh, bị cáo giác là tịch thu trái phép tại Quảng Châu), Anh kiên quyết theo một thoả ước quy định về một quyền mà họ tranh đấu từ lâu, đó là quyền cho sứ thần được lưu ngụ tại Bắc Kinh. Năm sau, khi đến nhậm chức với đoàn tùy tùng trong khí thế khải hoàn, vị sứ thần Anh nhận ra trên các tuyến đường sông chính hướng về thủ đô bị phong toả bởi những xích và kẽm gai. Ông ra lệnh cho lực lượng thủy quân lục chiến Anh dẹp chướng ngại, quân đội Trung Quốc khai hoả, 519 lính Anh chết và 456 người khác bị thương trong trận đánh kế tiếp. Anh liền gởi một lực lượng dưới sự chỉ huy của Lord Elgin đột kích Bắc Kinh và tiêu huỷ cung điện muà hè khi triều đình nhà Thanh bỏ chạy. Việc can thiệp thô bạo này buộc triều đình miễn cưỡng chấp nhận lập một khu vực làm toà công sứ cho các đại biểu ngoại giao lưu ngụ. Sự tùng phục của Trung Quốc trong khái niệm của một chính sách ngoại giao hỗ tương theo hệ thống Westphalian thuộc các quốc gia có chủ quyền là miễn cưỡng và phẫn uất.
Trọng tâm của các tranh chấp này là một vấn đề rộng lớn hơn: Có phải Trung Quốc là một trật tự cho toàn bộ thế giới không, hay chỉ là một nước như những nước khác và là một thành phần trong hệ thống thế giới rộng hơn? Trung Quốc bám chặt vào tiền đề truyền thống. Vào cuối năm 1863, sau hai lần thất trận do cường quốc man rợ và nội loạn tràn lan (loạn Thái Bình) dập tắt được là do lời kêu gọi lực lượng ngoại quốc, Hoàng đế đã gởi một thư tới Abraham Lincoln để đảm bảo với ông về một đặc ân của Trung Quốc: "Vì nhận được mệnh trời để cai trị thế gian, nên Trẩm xem Trung Quốc và các nước khác bên ngoài như là tạo thành một gia đình mà không có phân biệt."
Năm 1872, James Legge, người Tô Cách Lan, là một nhà Trung Quốc học nổi danh, ông đã nói rõ vấn đề và niềm tin về tính ưu thế hiển nhiên của khái niệm ở phương Tây về một trật tự của thế giới vào thời của ông ta:
“Trong suốt 40 năm qua, vị thế của Trung Quốc trong vấn đề đối với các nước tiên tiến hơn của thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Trung Quốc đã kết ước với họ trong những điều kiện bình đẳng; nhưng nhìn từ bề ngoài bằng một cách công bình, thì tôi không nghĩ là các quan thượng thư và dân chúng của họ vẫn chưa nhìn thấy sự thực này phải đối diện, để họ hình dung một sự thực là Trung Quốc chỉ là một trong số những quốc gia độc lập trên thế giới, và “trong thiên hạ“, Hoàng đế của họ là có quyền cai trị, nhưng không phải là cai trị thiên hạ trong mọi bầu trời, nhưng chỉ là một phần trong bầu trời, như được định nghiã trong bề mặt của trái đất và có thể được chứng minh trên bản đồ.“
Khi nền công nghệ và trào lưu mậu dịch buộc các hệ thống tương phản tiếp xúc nhau nhiều hơn, thì quy luật của một trật tự thế giới nào sẽ chiếm ưu thế?
Tại châu Âu, hệ thống Westphalia là kết quả tự nhiên của một loạt các quốc gia độc lập trong thực tế sau khi chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc. Châu Á bước vào kỷ nguyên hiện đại mà không có một cơ cấu đặc biệt nào về tổ chức quốc gia và quốc tế. Hệ thống này bao gồm nhiều trung tâm văn minh, được bao bọc bởi các vương quốc nhỏ hơn, với một tập hợp các cơ chế tương tác lẫn nhau trong tinh tế và luôn thay đổi.
Tài nguyên phì nhiêu của vùng đồng bằng Trung Quốc, một nền văn hoá về tinh thần kiên cường lạ thường và sự nhạy bén chính trị tạo khả năng cho Trung Quốc duy trì được một thời kỳ hơn hai ngàn năm và gây ảnh hưởng đáng kể về các mặt văn hoá, kinh tế và chính trị - ngay cả khi Trung Quốc có điểm yếu về quân sự theo chuẩn mực thông thường. Lợi điểm tương đối nằm ngay trong sự thịnh vượng của nền kinh tế, nó sản xuất những sản phẩm mà tất cả các lân quốc mơ ước. Định hình theo những yếu tố này, tư tưởng của Trung quốc về một trật tự của thế giới hoàn toàn khác biệt với kinh nghiệm của châu Âu, khi họ dựa trên đa số của các nước bình đẳng.
Vở kịch của Trung Quốc phải đương đầu với thế giới phương Tây phát triển và Nhật Bản là ảnh hưởng của các đại cường quốc, mà họ có tổ chức như là các quốc gia có chủ trướng bành trướng văn minh. Thoạt đầu, Trung Quốc thấy cạm bẩy của một nhà nước hiện đại như là một sự hạ mình cho họ. Sự trổi dậy của Trung Quốc về đặc điểm ưu việt trong thế kỷ XXI không là chuyện mới, nhưng là tái lập lại một khuôn mẫu lịch sử. Điểm đặc sắc là Trung Quốc trở thành một người thừa kế một nền văn minh xa xưa và còn là một siêu cường hiện đại theo mô hình của hoà ước Westphalian. Trung Quốc kết hợp những di sản của khái niệm "Gồm thâu Thiên hạ", hiện đại hoá kỹ trị, và một mưu cầu để tổng hợp hai nhiệm vụ này cho đất nước trong thế kỷ XX đầy những biến động bất thường.

Trung Quốc và Một Trật tự Của Thế Giới

Chế độ hoàng triều sụp đổ vào năm 1911. Sự thành lập chế độ Cộng hoà Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên vào năm 1912 đã để lại cho Trung Quốc một chính quyền trung ương yếu kém và mở đầu một một thập niên của các sứ quân. Vào năm 1928 dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch, một chính quyền trung ương mạnh hơn được thành lập và cố tạo điều kiện cho Trung Quốc đảm nhiệm một vị thế trong khái niệm theo hoà ước Westphalian về một trật tự của thế giới và trong một hệ thống kinh tế toàn cầu. Nỗ lực để trở thành một Trung Quốc vừa hiện đại vừa giữ được truyền thống, Trung Quốc cố thích nghi vào trong một hệ thống quốc tế, mà hệ thống này tự nó đang nằm trong biến động. Tuy nhiên, tại thời điểm này, Nhật Bản đã tiến hành chương trình hiện đại hoá sớm hơn nửa thế kỷ, nay đã nỗ lực dành quyền bá chủ châu Á. Theo sau hành vi chiếm đóng Mãn châu vào năm 1931 là hàng loạt các cuộc xâm chiếm của Nhật Bản trải dài từ vùng Trung nguyên và phía Đông Trung Quốc vào năm 1937. Chính phủ Quốc Dân Đảng bị ngăn trở trong việc củng cố vị thế, và loạn quân Cộng sản có được phạm vi hoạt động. Dù trổi dậy như một cường quốc của Đồng minh thắng trận với sự kết thúc của thế chiến thứ hai vào năm 1945, Trung Quốc bị phân hoá do nội chiến và hỗn loạn cách mạng mà nó gây thách thức cho tất cả các mối quan hệ và các di sản.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949 tại Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản thắng trận, tuyên bố thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc với với các lời lẽ: "Nhân dân Trung Quốc đã đứng dậy". Mao đề ra khẩu hiệu này khi Trung Quốc thanh lọc và tự lực tăng cường qua giáo điều của “cuộc cách mạng liên tục“ và tiến hành loại bỏ các khái niệm đã thành hình trước đây về trật tự quốc nội và quốc tế. Toàn bộ của các phạm vi thuộc về thể chế đều bị công kích: nền dân chủ phương Tây, sự lãnh đạo của Liên Xô trong thế giới Cộng sản và một di sản về quá khứ của Trung Quốc. Nghệ thuật và các lăng tẩm, các ngày lễ hội và truyền thống, ngôn ngữ và y phục bị cấm đoán qua nhiều hình thức khác nhau, tất cả bị cáo buộc là gây ra tinh thần thụ động khiến cho Trung Quốc không chuẩn bị đối phó ngoại xâm. Trong khái niệm của Mao về một trật tự, điểm mà ông gọi là một “sự hoà hợp vĩ đại“, có âm hưởng triết học cổ điển của Trung Quốc - một Trung Quốc hiện đại sẽ vươn lên thoát khỏi sự hủy diệt của truyền thống văn hoá Nho giáo mà nó nhấn mạnh đến sự hài hoà. Ông tuyên bố rằng mỗi đợt sóng của nỗ lực cách mạng sẽ phục vụ như người đi tiên phong cho các đợt sóng cách mạng theo sau. Mao lập luận là tiến trình cách mạng phải được tăng tốc, vì sợ rằng những nhà cách mạng sẽ tự mãn và lười biếng: "Tình trạng bất quân bình là một qui luật tổng quát và khách quan." Mao viết:
Chu kỳ này không kết thúc, nó phát triển từ tình trạng bất quân bình sang tình trạng quân bình rồi thì từ quân bình lại sang bất quân bình. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ mang đến cho chúng ta một trình độ phát triển cao hơn. Tình trạng bất quân bình là bình thường và tuyệt đối trong khi tình trạng quân bình là tạm thời và tương đối.
Kết cuộc, biến động này nhằm để mang lại một loại thành quả theo truyền thống Trung Quốc: một hình thức của chủ nghĩa Cộng sản thuộc về đặc thù nội tại cho Trung Quốc, tự đặt tách ra cho mình một hình thức độc tôn của hành vi ứng xử mà nó thay đổi là do thành tựu của mình, trước kia Trung Quốc có độc quyền về luân lý, nay độc quyền này mang tính đạo đức cách mạng, một lần nữa nó làm xoay trong khái niệm về "Gồm thu Thiên hạ".
Mao chỉ đạo các vấn đề quốc tế bằng cách đặt nhiều tin cậy tương tự vào tính độc tôn của Trung Quốc. Về mặt khách quan, dù Trung Quốc là yếu, nếu đo với sức mạnh của các nơi khác trên thế giới, Mao kiên quyết nhấn mạnh về vai trò trọng yếu của Trung Quốc qua tính ưu việt về mặt tâm lý và ý thức hệ, nó được biểu hiện qua việc thách thức nhiều hơn là hoà hợp với thế giới, một thế giới đang nhấn mạnh đến uy quyền kinh tế tối thượng. Khi phát biểu trong một hội nghị quốc tế của các lãnh tụ Đảng Cộng Sản tại Mạc Tư Khoa vào năm 1957, Mao gây chấn động cho các đại biểu tham dự bằng cách tiên đoán là trong trường hợp có biến cố với chiến tranh hạt nhân, là quốc gia đông dân nhất và có nền văn hoá kiên cường, Trung Quốc sẽ là người chiến thắng sau cùng, và Trung Quốc không thay đổi tiến trình cách mạng ngay cả khi hằng trăm triệu dân bị thương vong. Trong khi lời tuyên bố này có phần nào là đánh lừa các nước có những công xưởng vũ khí hạt nhân rộng lớn nản lòng, Mao muốn thế giới tin là Mao nhìn vấn đề chiến tranh hạt nhân với lòng bình thản. Vào tháng 7 năm 1971 - trong chuyến viếng thăm bí mật của tôi tại Bắc Kinh - Chu Ân Lai đã đúc kết khái niệm về trật tự thế giới của Mao bằng cách viện dẫn lời của Mao Chủ tịch về tầm nhìn của các vị hoàng đế Trung Quốc với gịong điệu miã mai: "Cả trong thiên hạ đang hỗn loạn, tình hình là tuyệt vời". Từ trong một thế giới nhiễu nhương, Cộng Hoà Nhân Dân, được rèn luyện qua nhiều năm tranh đấu, cuối cùng sẽ đứng lên đạt chiến thắng, không phải chỉ ở Trung Quốc, mà còn khắp mọi nơi “trong thiên hạ". Trật tự thế giới theo thuyết Cộng sản sẽ hoà quyện với quan điểm truyền thống của hoàng triều.
Giống như nhà sáng lập triều đại đầu tiên hùng cường nhất của Trung Quốc (221-207 trước Công nguyên) là Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, Mao cố gắng thống nhất Trung Quốc, trong khi ông cũng tìm cách phá hoại truyền thống xa xưa mà ông cáo buộc là làm cho Trung Quốc bị suy yếu và sĩ nhục. Ông trị vì theo một phương cách từ xa giống như cách của bất cứ vị Hoàng đế nào (dù các vị Hoàng đế không cần triệu tập quảng đại quần chúng), ông kết hợp cách này với những cách áp dụng của Lenin và Stalin. Cách cai trị của Mao thể hiện nhiều khó khăn trong việc tiến thoái của đấu tranh cách mạng. Những thay đổi do cách mạng càng càn quét bao nhiêu, thì Mao càng gặp chống đối bấy nhiêu. Sự chống đối này không nhất thiết là do giới đối kháng thuộc về ý thức hệ hay chính trị, nhưng còn do sự trì trệ của người trong Đảng. Nhà tiên tri cách mạng đã đem cái chết của mình ra để thách thức nhằm tăng tốc cho lịch trình hành động và nhân rộng hơn về những phương tiện để thực hiện viễn kiến của mình. Mao tung ra chiến dịch Bước Tiến Nhãy Vọt đầy tai hoạ vào năm 1958 để buộc phải công nghiệp hoá nhanh chóng và Cách mạng Văn hoá vào năm 1966 để thanh trừng giới lãnh đạo, tất cả nhằm ngăn ngưà tiến trình thể chế hoá trong một chiến dịch ý thức hệ dài cả hằng chục năm, lưu đày một thế hệ trẻ có trình độ học vấn lui về nông thôn. Hàng chục triệu người chết trong khi theo đuổi mục tiêu của Mao - hầu hết bị loại trừ mà không kể thương hay ghét, buộc phải kết liễu cuộc đời, những gì mà đến nay được xem là một quá trình lịch sử.
Những cuộc cách mạng thắng lợi khi thành quả cách mạng được bảo đảm và cái giá phải trả cho thành quả này được xem như không thể tránh được. Một số nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đã chịu đựng những tổn thất khá nặng nề trong thời Cách mạng Văn hoá, nhưng hiện nay, họ trình bày rằng đau khổ đem lại cho họ sức mạnh và khám phá chính mình để tự rèn luyện cho các nhiệm vụ khó khăn về lãnh đạo một thời kỳ khác của sự chuyển hoá toàn diện. Và dân chúng Trung Quốc, đặc biệt giới trẻ đã trực tiếp trải nghiệm gian lao, dường như họ chấp nhận sự mô tả Mao chủ yếu như là một mẫu người kết hợp nhân danh phẩm giá Trung Quốc. Khiá cạnh nào của di sản này là có ưu thế - thách thức của chủ nghĩa Mao trêu chọc cho thế giới hay sự kiên cường trong thầm lặng, mà đặc điểm này đạt được qua thời kỳ biến động của Mao – và sẽ đóng vai trò quyết định mối quan hệ của Trung Quốc về một trật tự của thế giới trong thế kỷ XXI.
Trong thời kỳ đầu tiên của cuộc Cách mạng Văn hoá, Trung Quốc tự chọn có bốn vị đại sứ trên toàn thế giới và đối đầu với hai siêu cường có hạt nhân là Hoa Kỳ và Liên Xô. Vào cuối thập niên 1960, Mao thừa nhận Cách mạng Văn hoá đã làm cạn kiệt khả năng chịu đựng của người Hoa mà họ đã được thử thách qua hàng ngàn năm trước và sự cô lập của Trung Quốc gây thu hút cho ngoại quốc can thiệp. Mao cố tìm cách khắc phục bằng một tinh thần ngoan cố theo ý thức hệ lẫn sự thách thức. Năm 1969, Liên Xô dường như đang sắp tấn công Trung Quốc khiến cho Mao phải sơ tán các Bộ về các tỉnh, và chỉ có Thủ tướng Chu Ân Lai còn ở lại Bắc Kinh. Để đối phó với cuộc khủng hoảng này, Mao phản ứng lại với cách chuyển chiều hướng bất ngờ thật đặc biệt. Ông chấm dứt mọi khía cạnh vô chính phủ nhất của Cách mạng Văn hoá bằng cách dùng quân đội dẹp tan Hồng Vệ Binh, lực lựợng đã gây tai biến - đưa họ về nông thôn, nơi mà họ lần đầu tiên tham gia chung với các nạn nhân thuở trước của họ, mà kỳ thực, là làm trong các trại lao động cưỡng bách. Và ông cố trấn áp Liên Xô bằng cách chuyển hướng về một đối thủ mà từ trước đến nay ông luôn phỉ báng, đó là Hoa Kỳ.
Mao ước tính rằng việc mở cửa cho Hoa Kỳ sẽ chấm dứt sự cô lập của Trung Quốc và các nước khác có được một sự biện minh để công nhận Công Hoà Nhân Dân Trung Quốc. (Một điểm thú vị là khi tôi đang chuẩn bị chuyến đi lần đầu tiên, một bản phân tích của CIA cho là những xung đột Liên Xô và Trung Quốc đang căng thẳng, nên dễ làm cho sự xích lại của Hoa Kỳ và Trung Quốc thành khả thi, nhưng sự cuồng nhiệt về ý thức hệ của Mao sẽ ngăn trở tiến trình này trong suốt cả đời ông).
Những cuộc cách mạng, cho dù có sức càn quét đến đâu chăng nữa, cần phải được cũng cố, rút cuộc, các lúc sôi nổi cần phải thích ứng cho những gì có thể duy trì được qua thời gian. Đó chính là vai trò lịch sử mà Đặng Tiểu Bình đã đóng. Dù ông đã hai lần bị Mao thanh trừng, hai năm sau khi Mao chết vào năm 1976, ông trở thành nhà lãnh đạo có hiệu năng. Ông nhanh chóng tiến hành cải cải cách kinh tế và mở cửa xã hội. Theo đuổi những gì mà ông gọi là "Xã hội chũ nghiã với đặc trưng Trung Quốc", ông cởi trói những năng lực tiềm tàng của người dân Trung Quốc. Không đầy trong vòng một thế hệ, Trung Quốc thăng tiến để trở thành một nền kinh tế mạnh hàng thứ nhì trên thế giới. Để tăng tốc sự chuyển hoá đầy ngoạn mục này, - nếu không nhất thiết là do niềm tin - Trung Quốc hoà nhập trong các thể chế quốc tế và chấp nhận những quy luật đã được quy định cho một trật tự thế giới.
Tuy nhiên, sự tham gia của Trung Quốc theo những đặc điểm của cấu trúc của hoà ước Westphalia mang đến cho họ một sự mâu thuẩn đã phát sinh trong lòng lịch sử. Trung Quốc đem khía cạnh này khi tham gia vào hệ thống nhà nước trên chính trường quốc tế. Trung Quốc không quên rằng từ ban đầu họ bị buộc phải kết ước với một trật tự quốc tế sẳn có theo cách hoàn toàn trái ngược với hình ảnh lịch sử của họ, hoặc đối với những nguyên tắc của hệ thống Westphalia đã được thừa nhận, họ cũng chiụ y như vậy. Khi bị thúc dục tham gia vào "quy luật của cuộc chơi" và "trách nhiệm" trong hệ thống quốc tế, các phản ứng nội tại của số đông người Trung Quốc - kể cả các giới lãnh đạo cao cấp - họ đã bị ảnh hưởng cực kỳ sâu đậm bởi nhận thức rằng Trung Quốc đã không tham gia trong tiến trình lập pháp cho hệ thống. Khi họ được yêu cầu - và, như là một vấn đề thận trọng, họ đồng ý - tuân thủ luật pháp mà họ đã không tham gia trong việc lập pháp. Nhưng họ kỳ vọng rằng - và sớm muộn gì họ sẽ hành động đúng theo ước vọng này - một trật tự quốc tế phát triển theo cách tạo điều kiện cho Trung Quốc trở nên là người tham gia chủ động trong công tác lập pháp, ngay cả việc duyệt xét lại một số các luật lệ đang hiện áp dụng.
Trong khi chờ đợi việc này thành hình, Bắc Kinh ngày càng tích cực hơn trên chính trường thế giới. Với sự trổi dậy của Trung Quốc là cường quốc kinh tế có tiềm năng mạnh nhất trên thế giới; hiện nay, trong từng diễn dàn quốc tế, người ta tìm kiếm các quan điểm và hỗ trợ của Trung Quốc. Trung Quốc đã tham gia một vài khía cạnh có tính cách phô trương uy thế trong những hoạt động của phương Tây trong thế kỷ XIX và XX: thí dụ như đăng cai tổ chức Thế Vận hội, các nhà lãnh đạo đọc diễn văn trước diễn đàn Liên hiệp quốc, thăm viếng hỗ tương giữa các nguyên thủ quốc gia và các chính quyền của các cường quốc khắp thế giới. Dù theo chuẩn mực nào, thì Trung Quốc cũng đã lấy lại được một tư thế đã nổi danh trong nhiều thế kỷ với những ảnh hưởng sâu rộng nhất của mình. Vấn đề đặt ra trước mắt là Trung Quốc sẽ ứng xử với một trật tự thế giới như thế nào trong sự tìm kiếm hiện nay, đặc biệt nhất là trong mối quan hệ với Hoa Kỳ.
[1] Hoà ước Westphalia là một loạt các thoả ước được ký kết từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1648 tại hai thành phố Osnabrück và Münster (Đức) nhằm kết thúc chiến tranh Ba mươi năm (1618- 1648) tại Trung Âu (Holy Roman Empire) và chiến tranh Tám mươi năm (1569-1648) giữa Tây Ban Nha và Hoà Lan. Các hoà ước Westphalia này đã định hình cho một hệ thống chính trị mới cho các quốc gia châu Âu với các khái niệm chủ yếu là tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, vẹn toàn lãnh thổ và nguyên tắc bất can thiệp vào nội bộ nước khác. Các khái niệm này sau trở thành nền tảng cho luật quốc tế nhờ sự chuẩn nhận của Cơ quan Liên Hiệp Quốc. (chú thích của người dịch)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét