“…Họ lương thiện trong 99% thời gian, nghĩa là trong lúc bình thường không cần chứng tỏ sự lương thiện, chỉ lưu manh 1% thời gian, vào lúc phải lương thiện. Họ dũng cảm 99% thời gian, những lúc không cần dũng cảm, chỉ hèn 1% thời gian, vào lúc phải dũng cảm…”
Trong một thời gian dài tôi không hiểu tại sao tôi rất chán môn đạo đức học (ethics), dù đó là một phần quan trọng của triết và gắn bó chặt chẽ với một môn mà tôi thích: chính trị. Biết thế nhưng đã bao nhiêu lần tôi muốn đọc đạo đức mà không được. Cứ đọc được vài giờ là chán tới cổ. Có thể là vì tôi không có cốt đạo nhưng cũng vì một lý do khác mà về sau tôi mới hiểu. Đó là vì các tác giả viết về đạo đức đều sai phương pháp. Họ loay hoay giảng giải điều không thể giảng giải được, nghĩa là những giá trị đạo đức. Những giá trị này – thí dụ như không được hung bạo, ăn cắp, nói dối, phản bội, nuốt lời hứa; phải thực thà, lương thiện, thủy chung, thương yêu v.v. - không thể giải thích được. Chúng có sẵn trong thiên nhiên và trong DNA của mỗi người và là nền tảng để lý luận và giải thích những điều khác. Không có thì thôi chứ không thể thảo luận gì cả.
Plato và Aristotle
Trong số những điều ít ỏi tôi còn nhớ về môn đạo đức học có sự khác biệt giữa Plato và Aristotle. Xin tóm lược một cách rất sơ sài.
Plato (438 -348 trước Công Nguyên) là học trò của Socrates (470 – 399 tr. CN) và nói rằng tất cả những gì ông nói ra chỉ là chép lại những mẩu đối thoại của Socrates. Nhưng chép lại làm sao có thể hay đến thế được, cùng lắm Plato đã chỉ lấy cảm hứng từ thày để viết thôi. Plato đã kính phục thày mình và ông hoàn toàn có lý. Socrates là người đầu tiên trên thế giới đã chấp nhận chết vì ý kiến của mình. Ai cũng phải ngưỡng mộ Socrates, dù có thể bác bỏ quan điểm về chính quyền mà Plato viết ra và nói là của ông. Aristotle (384 – 322 tr. CN) là học trò của Plato.
Plato và Aristotle trình bày hai quan điểm rất khác nhau khi trả lời cùng một câu hỏi căn bản của đạo đức học là "phải sống và hành động như thế nào?" Plato, tư biện và giáo điều, cho rằng phải vừa tu thân -nghĩa là liên tục tập luyện để sống một cách đúng đắn- vừa học để mở mang trí tuệ, trong đó học quan trọng hơn bởi vì sự gian trá chỉ là hậu quả của u mê, con người khi đã hiểu biết tất nhiên sẽ sống lương thiện. Học đối với Plato là học toán và triết, bởi vì vào thời đại của ông toán và triết là tất cả. Theo Plato những kẻ đã tu thân và quán triệt toán và triết sẽ biết sống và nêu gương sống, còn quần chúng phải phục tùng và noi gương họ mà sống. Đặc điểm và cũng là khuyết điểm của Plato là ông hình như chỉ coi trọng những phần tử tinh hoa. Aristotle, thông thái và ôn hòa, đề ra thuyết trung dung (the golden mean, le juste milieu) cho rằng mỗi người tuy cũng phải hướng thượng và noi gương những người tài đức nhưng cứ tùy theo khả năng và bản chất của mình mà thể hiện những giá trị đạo đức ở mức độ phù hợp với mình cũng là tốt rồi.
Hầu như mọi người đều cho rằng Aristotle có lý hơn Plato. Tôi cũng rất ngưỡng mộ Aristotle và tin rằng ông hơn Plato trên rất nhiều điểm – trò hơn thày là có tiến bộ và đáng mừng- nhưng càng về sau tôi càng thấy ít nhất về quan điểm đạo đức Plato có lý hơn. (Trên một môn khác tôi cũng đánh giá Plato cao hơn, đó là môn tri thức học (epistemology), nhưng đó là một vấn đề nằm ngoài khuôn khổ của bài này).
Trước hết phải nói rằng việc so sánh quan điểm của hai nhà triết vĩ đại này có phần khập khiễng. Tuy cùng bắt đầu với câu hỏi "phải sống và hành động như thế nào" nhưng sau đó hai người đã đi theo hai hướng hơi khác nhau. Plato nhất quyết trả lời trực tiếp câu hỏi này trong khi Aristotle cho rằng phải sống cho có hạnh phúc, rồi dần dần chuyển sang biện luận về hạnh phúc. Tuy nhiên sự khác biệt quan điểm giữa hai thày trò vẫn khá rõ rệt.
Bằng một cách tiếp cận vấn đề rất độc đáo vào thời đại của ông và cả nhiều thế kỷ sau đó, Aristotle đã không lý luận một cách tự biện (speculative) và thuần lý như Plato và tất cả các triết gia cổ Hy Lạp mà đã rút kết luận từ những quan sát thực nghiệm trong đời sống hàng ngày. Ông nhận thấy rằng mọi người đều mưu tìm hạnh phúc và như thế vấn đề nền tảng là sống thế nào để có hạnh phúc trong khi vẫn cố gắng tôn trọng các giá trị đạo đức. Trong khi đưa ra thuyết trung dung ông cũng gián tiếp phản bác quan điểm của thày mình và cho rằng không phải ai biết phân biệt đúng sai cũng tự nhiên làm điều đúng; không thiếu những người biết việc làm của mình là sai mà vẫn cứ làm, bản chất con người là thế. Tinh thần bao dung –và đa nguyên- của Aristotle thể hiện rõ ràng khi ông cho rằng không phải chỉ có một cách sống đúng; điều gì đúng cho một người chưa chắc đã đúng cho một người khác; đúng hay sai cũng tùy quan điểm cá nhân của mỗi người; không thể chỉ thuần túy dựa trên lý luận để quyết định lối sống phải có cho mọi người. Điểm nổi bật nhất của Aristotle là ông cho rằng mỗi người có một mức trung dung tối ưu riêng và chỉ có thể dò dẫm, rút kinh nghiệm, sửa sai và cải tiến. Aristotle còn giáng cho sư phụ mình một đòn ơn huệ khi ông nói rằng xét cho cùng phần lớn các giá trị đạo đức cũng chỉ là những giá trị trung gian. Dũng cảm là trung gian giữa hèn nhát và liều lĩnh, hãnh diện là trung gian giữa huênh hoang và hèn hạ v.v.
Những người phản bác Plato (và bênh Aristotle) còn đưa ra nhiều lập luận khác mà lập luận có trọng lượng nhất là trong chiều sâu Plato đã phủ nhận đạo đức đối với tuyệt đại đa số. Chỉ một thiểu số rất nhỏ có tư chất và điều kiện để trở thành những con người tuyệt hảo như Plato đòi hỏi, những người khác chỉ vâng phục, như vậy họ không tự nguyện, mà đã không tự nguyện thì không thể nói tới trách nhiệm và đạo đức. Nói chung trường phái Aristotle là trường phái tương đối, chủ quan và thực nghiệm trong khi Plato tuyệt đối, khách quan và lý thuyết. Tuyệt đối vì Plato cho rằng chỉ có một cách sống đúng cho tất cả mọi người; khách quan vì theo ông một hành động đúng hay sai là tự nó đúng hay sai chứ không phải tùy theo cách nhìn của mỗi người; lý thuyết vì ông quả quyết rằng những tiêu chuẩn đạo đức không đến từ kinh nghiệm mà có sẵn. Plato còn cho rằng cái đúngcao hơn cả thượng đế và thượng đế cũng chỉ đáng thờ nếu đúng.
Tội ác là con đẻ của ngu dốt
Tuy rất hâm mộ Aristotle và trường phái của ông nhưng càng ngày tôi càng ngả về Plato. Và một cách ngộ nghĩnh tôi ngả về phía Plato vì lý do thực nghiệm. Chính kinh nghiệm chứ không phải lý luận đã đã khiến tôi nhận định rằng tội lỗi và sự gian ác phần lớn là hậu quả của sự ngu dốt.
Nhận xét rõ nét nhất là những tay độc tài hung bạo đều vô học hay ít học, dù là Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, gia đình họ Kim ở Cao Ly, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Đức Anh, Đỗ Mười v.v. Nếu hiểu biết có thể họ đã không làm những gì họ đã làm.
Trong trường hợp Việt Nam, nếu có chút kiến thức thì vào năm 1920, Hồ Chí Minh đã không say sưa tới mê sảng (theo chính lời ông kể lại) khi gặp chủ nghĩa cộng sản. Ông đã phải biết rằng chủ nghĩa này đã bị chính những người ủng hộ nó mạnh mẽ nhất lúc ban đầu -Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức- vất bỏ từ gần một nửa thế kỷ rồi. Ít nhất ông cũng phải thận trọng chứ không thể mê cuồng đến thế. Chính sự mê muội này đã đưa Việt Nam vào thảm kịch. Những sai lầm và tội ác sau đó –tàn sát các đảng phái quốc gia, cải cách ruộng đất, nội chiến- chỉ là hậu quả của sự mê muội lúc ban đầu.
Nếu Lê Duẩn và Lê Đức Thọ biết rằng chủ nghĩa Mac-Lênin đã bị vất bỏ từ 100 năm trước (Đại hội Gotha 1875) và sắp bị lên án như một tội ác thì họ đã không huênh hoang gào thét "Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm!" sau ngày 30-4-1975 rồi thi hành chính sách bỏ tù và hạ nhục đối với miền Nam. Họ đã thực hiện hòa giải dân tộc và đi vào lịch sử một cách vinh quang thay vì làm như họ đã làm và mang tiếng ngu muôn đời.
Nếu Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đỗ Mười hiểu rằng dân chủ là tương lai tất yếu và họ có thể chuyển hóa về dân chủ một cách an toàn (nên nhớ Nguyễn Văn Linh đã rất được hoan nghênh lúc ban đầu khi người ta tưởng ông ta thực sự muốn thay đổi) thì họ đã không hoảng hốt đi quỵ lụy để xin đầu hàng Trung Quốc. Nếu họ biết rằng chính chế độ Trung Quốc cũng sẽ không thể trụ được v.v… Tất cả đã bắt nguồn từ sự ngu dốt.
Đọc đến đây chắc nhiều vị đã nổi giận và muốn thét lên: "Ngụy biện! Chúng nó đâu có ngu, chúng nó gian ác!". Xin quí vị bình tĩnh. Tôi không phủ nhận là họ đã rất gian ác, biết mình rất sai phạm – còn tội nào lớn hơn tội gây nội chiến làm chết sáu triệu đồng bào, dâng chủ quyền cho ngoại bang?- mà vẫn làm. Chắc chắn những người lãnh đạo cộng sản trong lúc này cũng phải biết rằng tham nhũng, vơ vét, cướp đất của dân, quỵ lụy trước Bắc Kinh là nhơ nhớp nhưng vẫn làm vì gian tham. Họ biết nhiều lắm. Nhưng những "kiến thức" của họ chỉ đại loại như kiểu Lê Duẩn biết ba dòng thác cách mạng. Hay như Lê Đức Anh biết:"Mỹ âm mưu tiêu diệt ta, muốn chống lại Mỹ phải có đồng minh, đồng minh là Trung Quốc" (Hồi Ức Trần Quang Cơ). Đặc tính của những người ít học là họ thường nghĩ là mình đã biết hết rồi và phải nhẩy chồm tới kết luận vì không chịu đựng nổi sự đau nhức của lý luận. Chính sự gian tham của các quan chức hiện nay xét cho cùng cũng chỉ là sản phẩm của sự ngu muội. Họ đã không biết -như cả Plato lẫn Aristotle- thế nào là một cuộc sống xứng đáng nên đã tưởng vũng bùn nhơ của giành giật, cướp bóc, hung bạo là hạnh phúc, cao cả, vinh quang. Như thơ Nguyễn Chí Thiện:
Những đứa con của ngừng đọng tối tăm
Chúng sinh ra từ tăm tối nhiều năm
Nên chúng tưởng đêm đen là ánh sáng.
Plato có lý và Aristotle đã sai khi biện luận quá xa. Những mệnh lệnh nền tảng của đạo đức, hay những giá trị đạo đức "cấp một", những giá trị phải có,như không nói dối, không trộm cướp, không bội ước v.v. đều là những giá trị tuyệt đối chứ không có trung gian. Người ta giữ hoặc không giữ lời hứa, ăn cắp hay không ăn cắp, chứ không giữ lời hứa 50%, ăn cắp 30% v.v. Ngay cả những giá trị đạo đức "cấp hai", những giá trị nên có, như dũng cảm, tự hào, chuyên cần v.v. cũng không phải là những trung gian. Hèn nhát và liều lĩnh không phải là những thái cực của sự dũng cảm mà chỉ là hai hậu quả của sự vắng mặt của dũng cảm; cũng thế tự hào không phải là trung gian giữa vênh váo và cúi rạp, tự hào là tự hào.
Tất cả chỉ vì hèn?
Nhưng tại sao những người không có tài cũng chẳng có tâm như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn v.v. lại đã có thể lôi kéo cả một dân tộc vào một cuộc nội chiến ba mươi năm và thành công? Nếu Mặt Thật của Bùi Tín và Đèn Cùcủa Trần Đĩnh ra đời vào thập niên 1950 thay vì 1992 và 2014 thì lịch sử Việt Nam có thể đã khác và hàng triệu người đã không thiệt mạng. Tại sao sự thật lại chỉ được phơi bày muộn màng như thế?
Nghiêm trọng hơn, tại sao từ sau ngày 30/4/1975 đảng cộng sản dù đã thất bại thê thảm trên tất cả mọi phương diện và trong tất cả mọi địa hạt, đã khiến nước ta mất chủ quyền, mất đất, mất đảo, mất biển, tụt hậu một thế kỷ so với thế giới lại có thể vẫn đứng vững và hơn thế nữa vẫn chưa có đối thủ nào đáng kể trước mặt?
Cô Nguyễn Thị Từ Huy hình như tin rằng mình đã tìm ra câu trả lời (1). Nhân nhìn tấm hình ba phụ nữ kéo bừa cô nổi đóa mạt sát bọn đàn ông con trai như sau:
"Cá nhân tôi, từ những gì nhìn thấy và biết được, tôi cho rằng sở dĩ có tình trạng phụ nữ phải kéo cày như thế này, sở dĩ có sự suy thoái toàn diện của xã hội hiện nay, có sự mất độc lập quốc gia hiện nay là vì đa số đàn ông các anh hèn và quá hèn. Không phải các anh không biết, không phải các anh không thấy. Các anh thấy hết, biết hết, nhưng nhắm mắt làm ngơ, lấy im lặng và nhẫn nhục làm mục đích tồn tại.
Tôi muốn hỏi tất cả đàn ông các anh, những người đàn ông của chúng tôi, câu này:
"Bao giờ các anh sẽ thôi tán phét trong các quán nhậu? Bao giờ các anh quyết định thôi sống hèn?""
Rõ ràng giải đáp của cô Từ Huy là: "Đàn ông Việt Nam hèn".
Ngay sau đó cô tiến sĩ Trần Thu Dung nhập cuộc sửa lưng cô Từ Huy (2). Theo cô Thu Dung đàn ông Việt Nam kéo cày được – cô cũng trưng tấm ảnh một chàng thanh niên đang kéo cày - thì đàn bà Việt Nam cũng kéo cày được; cái nhục không phải là phụ nữ Việt Nam kéo cày mà là người Việt Nam kéo cày thay trâu trong thế kỷ 21, không phải chỉ có đàn ông con trai Việt Nam hèn mà đàn bà con gái Việt Nam cũng hèn. Nói tóm lại là cả dân tộc Việt Nam hèn. Thực ra cô Thu Dung cũng đồng ý với cô Từ Huy về nguyên nhân của thảm kịch Việt Nam, chỉ phản đối chính sách phân biệt đối xử của cô Từ Huy và đòi cho phụ nữ Việt Nam quyền được chia sẻ cái hèn với đàn ông.
Nhưng đâu là cội nguồn của cái hèn?
Tôi không muốn can thiệp vào cuộc tranh luận giữa hai nữ trí thức Hà Nội đang trong cơn indignation vertueuse (phẫn nộ vì lý do đạo đức). Tuy vậy tôi phải nhận xét là cả cô Từ Huy lẫn cô Thu Dung đều sai. Các cô ấy, rõ nét nhất là cô Từ Huy, thuộc trường phái Aristotle và chống Plato. Cũng như Aristotle, các cô ấy cho rằng người ta có thể biết mình hèn mà vẫn cứ hèn, người ta làm điều sai không phải vì không biết mình sai (Các anh thấy hết, biết hết, nhưng nhắm mắt làm ngơ, lấy im lặng và nhẫn nhục làm mục đích tồn tại). Các cô ấy xổ toẹt thần tượng Plato của tôi.
Lỗi tại Aristotle. Chính cái thuyết trung dung của ông đã làm hoại loạn tất cả. Aristotle sai. Như đại đa số trí thức Việt Nam. Họ theo thuyết trung dung, nghĩa là lương thiện theo tình huống, và trên thực tế họ đã sống rất lương thiện theo tiêu chuẩn của Aristotle. Họ lương thiện trong 99% thời gian, nghĩa là trong lúc bình thường không cần chứng tỏ sự lương thiện, chỉ lưu manh 1% thời gian, vào lúc phải lương thiện. Họ dũng cảm 99% thời gian, những lúc không cần dũng cảm, chỉ hèn 1% thời gian, vào lúc phải dũng cảm.
Cái sai của Aristotle, theo tôi, là đã lẫn lộn triết với chính trị. Triết là cố gắng tìm chân lý chân chính, tuyệt đối và cao vợi, ngay cả nếu không với tới được. Triết không thỏa hiệp. Thỏa hiệp với thực tại là công việc của chính trị và hành động. Nhưng ngay cả trong chính trị và hành động người hiểu biết cũng thỏa hiệp một cách thông minh, thỏa hiệp ở mức tối thiểu cần thiết và được phép, thỏa hiệp mà không đánh mất mình chứ không thỏa hiệp một cách phản bội. Tôi vẫn tin cái xấu chủ yếu là hậu quả của ngu dốt. Tôi vẫn tán thành Plato.
Hai cô Từ Huy và Thu Dung đã nhìn thấy hiện tượng nhưng chưa nhìn thấy nguyên nhân. Sự dũng cảm không phải là một giá trị đao đức cấp một, nghĩa là tự nhiên và phải có sẵn, mà chỉ là một giá trị cấp hai, nghĩa là có thể do một điều kiện nào đó mà có hay không có. Do đó muốn trị bệnh hèn phải trị tận gốc. Mắng nhiếc không đủ.
Vậy cái gốc là gì? Xin trả lời một cách thật cụ thể, ngắn gọn và dứt khoát:cái gốc của hèn là do thiếu tổ chức. Hai cô có thể truy cập tất cả mọi khảo cứu về tâm lý xã hội. Tất cả đều khẳng định tổ chức khiến con người trở thành dũng cảm và cho phép con người hành động dũng cảm. Thí dụ trong một bệnh viện, trước một trường hợp bệnh nhân cần giải phẫu khẩn cấp nếu không chắc chắn sẽ chết trong một tương lai gần, nhưng nếu mổ thì cũng có một xác xuất khá lớn là bệnh nhân sẽ chết ngay trên bàn giải phẫu. Một bác sĩ thường không dám lấy quyết định nhưng một hội đồng y sĩ chắc chắn sẽ không lưỡng lự. Hợp quần không chỉ gây sức mạnh mà còn tạo điều kiện để con người trở thành dũng cảm, nghĩa là hết hèn. Người Việt Nam thường không biết như thế, và họ hèn vì không biết lý do khiến mình hèn.
Một người cô đơn không chỉ tự nhiên hèn mà còn nên hèn. Nếu cô Từ Huy không hèn thì cô làm được gì? Cô sẽ tháo dép, dơ cao, xông vào trụ sở trung ương đảng cộng sản? Bảo đảm là cô sẽ bị chặn bắt ngay trước khi có thể tạt dép vào mặt một cấp lãnh đạo nào, bị giam và sau đó ra tòa lãnh án tù về tội "âm mưu lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa" theo điều 79 BLHS. Nếu cô nuốt giận ngồi nhà gõ sự phẫn nộ của mình trên bàn phím thì cũng chưa chắc đã an toàn. Cô rất có thể cũng sẽ bị bắt và phạt án tù về tội "lạm dụng các quyền tự do dân chủ" theo điều 258, như Nguyễn Quang Lập, Hồng Lê Thọ và nhiều blogger khác.
Muốn dũng cảm thì phải có tổ chức, không có tổ chức thì chỉ có thể hèn hoặc liều lĩnh. Người Việt Nam vẫn không hiểu như vậy. Và họ cũng không hiểu nhiều điều rất cơ bản khác.
Chính trị và đấu tranh chính trị
Trước hết họ không hiểu chính trị là gì. Trong cả ngàn năm chính trị của nước ta chỉ là một trò chơi danh vọng, và danh vọng được ban phát theo bằng cấp hoặc ơn huệ chứ không phải theo khả năng và sự hiểu biết. Những kẻ sĩ đậu những khóa thi cử vớ vẩn về Tứ Thư Ngũ Kinh chẳng liên hệ gì tới đời sống xã hội được bổ nhiệm làm tri phủ, tri huyện để "trị dân", dù hiểu biết về xã hội của họ còn thấp hơn cả người dân. Kẻ sĩ là một lớp người mà lý tưởng là được làm dụng cụ cho một bạo quyền để đàn áp quần chúng. Trong suốt dòng lịch sử chính trị chỉ là đàn áp và kẻ sĩ là những cây gậy để các vua chúa đánh đập dân chúng. Kẻ đánh biết mình đang đánh và kẻ bị đánh biết đau và thấm thía sự tàn bạo, nhưng cây gậy thì không biết suy nghĩ. Cái tâm lý dụng cụ đó vẫn còn để lại một di sản văn hóa nặng nề khiến trí thức Việt Nam đã không biết gì về chính trị lại còn tưởng là mình đã biết hết rồi và không chịu học để biết. Theo họ chính trị không cần học, ai có bằng cấp hay địa vị xã hội – dù chỉ là một bằng cấp chuyên môn hay một chức vụ hữu danh vô thực - là mặc nhiên thấy mình có đủ tư cách để nói về chính trị và làm chính trị.
Tôi đã nghe rất nhiều trí thức khoa bảng mặt mũi sáng sủa nói một cách tự nhiên "tôi không thích chính trị". Nhưng chính trị là gì? Chữ "chính trị" không có trong ngôn ngữ Việt Nam và Trung Quốc trước khi tiếp xúc với phương Tây. Nó được đặt ra để dịch chữ "politics" đã có từ thời cổ Hy Lạp. Nhưng đó là cách dịch phiến diện, ẩu tả. Politics có nghĩa là việc của thành phố, hay "việc chung", bởi vì vào thời đó mỗi thành phố là một nhà nước. Nếu khi mới tiếp nhận khái niệm chính trị người ta dịch politics là "việc chung" hay "việc nước" thì các trí thức khoa bảng sẽ khó có thể nói "tôi không thích việc chung" hay "tôi không thích việc nước" mà không thấy ngượng, hoặc ít ra không dám nói một cách hãnh diện như thế.
Một số trí thức, trong đó có cả những người tự cho là hiểu biết về chính trị, còn nói một cách chắc nịch: "Chính trị là thủ đoạn, là dơ bẩn". Họ dốt đặc mà không biết mình dốt. Mới đây ông tổng thống Pháp bị tai tiếng nhiều và uy tín xuống tới sát số không chỉ vì dùng xe máy lén lút đi ăn vụng với một cô bồ nhí. Một chuyện như vậy nếu xảy ra trong giới doanh nhân, hay thể thao, hay văn nghệ sĩ, hay ngay cả trong giới giáo chức, thì sẽ chỉ là một chuyện cười và François Hollande không chừng còn được cảm tình. Nhưng dư luận đã tức giận, và ông Hollande bị mất thể diện, vì nó đã xảy ra trong môi trường chính trị, một môi trường mà đạo đức là bắt buộc. Một cách giản dị chính trị là đạo đức ứng dụng, là sự thể hiện các giá trị đạo đức trong xã hội. Đạo đức và chính trị nhắm trả lời cùng một câu hỏi phải sống và hành động như thế nào. Chỉ khác nhau ở qui mô, đạo đức tìm câu trả lời ở qui mô cá nhân trong khi chính trị tìm giải đáp ở qui mô xã hội. Cốt lõi của luật pháp là thể hiện các giá trị đạo đức trong xã hội. Vì thế mà Plato, cũng vẫn Plato, đã nói một câu để đời: "Luật vô đạo không phải là luật". Sở dĩ môi trường chính trị thường phơi bày những sự gian trá bởi vì nó không dung túng sự gian trá. Một cọng rác trong một căn nhà sạch dễ thấy hơn là trong một căn nhà đầy rác. Quan điểm "chính trị là dơ bẩn" là quan điểm của những người không hiểu chính trị và đạo đức. Một cách cụ thể tôi cũng đã quan sát và nhận thấy rằng những người nói như vậy thường chỉ có một nhân cách thấp hoặc trung bình.
Động trời hơn nữa là có những người tự nhận là đấu tranh cho dân chủ nhưng lại tuyên bố một cách hãnh diện là không tham gia một tổ chức nào cả. Nhưng đấu tranh chính trị có bao giờ là đấu tranh cá nhân đâu, nó bao giờ cũng là đấu tranh có tổ chức. Những người nói như vậy chẳng thà đừng đấu tranh. Họ phá đám hơn là đóng góp. Muốn đóng góp cho cuộc vận động dân chủ chỉ bằng hoạt động cá nhân thì phải là những người thật thông thái hoặc những nhà tư tưởng rất lớn có khả năng soi sáng cho cuộc đấu tranh, nhưng những người như vậy lại không nói có thể đấu tranh mà không cần tổ chức.
Xét cho cùng, chúng ta đã là chúng ta hiện nay - tụt hậu bi đát so với thế giới, con người vẫn chưa được nhìn nhận những quyền con người cơ bản nhất, phụ nữ phải kéo cày v.v .- cũng chỉ vì sự u mê. Đất nước ta hình như có ba loại người chính: những kẻ gian ác, những người không dám chống lại và những người không biết cách chống lại. Giải pháp là những người dám chống lại phải học hỏi để biết cách chống lại, nghĩa là đấu tranh có tổ chức. Họ sẽ dũng cảm thay vì chỉ liều lĩnh, và họ sẽ đem sự dũng cảm đến với những người hiện nay chưa dám chống lại.
Lời cuối
Tôi rất thông cảm và đồng tình với sự phẫn nộ đạo đức, cette indignation vertueuse, của hai cô Từ Huy và Thu Dung. Chỉ mong các cô hiểu rằng vấn đề không phải là hèn hay không hèn mà là có hay không có tổ chức. Vậy thì thay vì phản bác nhau hai cô nên kết hợp với nhau, rủ luôn cô Phạm Thị Hoài, cô Võ Thị Hảo và nhiều cô khác, khởi xướng một đảng diệt hèn cứu nước. Cương lĩnh của đảng nên ghi rõ là các đảng viên không chấp nhận uống café với những ai nói "không làm chính trị" hoặc "chính trị là dơ bẩn", nhất là những anh tuyên bố một cách vô tư rằng mình đấu tranh cho dân chủ nhưng "không tham gia một tổ chức nào cả". Không phải vì khinh bỉ họ - đề nghị các cô tôn trọng nhân quyền - mà để phản đối những sai lầm lỗ mãng đã kéo dài quá lâu, và gián tiếp đồng lõa với bạo quyền.
Nguyễn Gia Kiểng
(12/2014)
(12/2014)
(1) Nguyễn Thị Từ Huy – Bao giờ các anh thôi sống hèn?
(2) Trần Thu Dung – Suy nghĩ về chữ "hèn"…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét