người chết cũng bị lừa
Tác giả: Tiziano Terzani
Phan Ba dịch từ báo Der Spiegel, số 18/1985
Lời người dịch: Tiziano Terzani (1938 – 2004) là một nhà
báo, nhà văn người Ý. Ông đã tường thuật 30 năm trời từ châu Á cho tuần
báo Der Spiegel, là một trong những phóng viên nổi tiếng ở Đông và Đông Nam Á.
Tiziano Terzani là một người có cảm tình với Việt Cộng. Ông đã từng vào rừng sống
chung với Việt Cộng. Tháng 4 năm 1975, ông là một trong số ít nhà báo đã ở lại
Sài Gòn, nhân chứng của thời điểm lịch sử đó. “Tôi đã rơi nước mắt”, Terzani nhớ
lại. Bài báo này do ông viết nhân dịp kỷ niệm mười năm kết thúc cuộc Chiến
tranh Việt Nam.
Người dân trông mạnh khỏe và vui tươi, họ mặc quần áo chỉnh
tề – nhưng chỉ trên các tấm áp phích. Dưới hàng trăm bức hình tưởng tượng khổng
lồ nhiều màu đó của công nhân, quân nhân và trẻ em, những người kiên quyết hay
mỉm cười nhìn lên bầu trời, là từng ấy con người thật, đói ăn, rách rưới, ốm yếu,
dơ dáy nhìn xuống mặt đất. Họ tìm một mẩu thuốc lá thừa, một mảnh giấy hay một
cái gì đó ăn được.
Sài Gòn kỷ niệm mười năm chiến thắng của tháng Tư 1975: công
sở được quét vôi mới, người bất đồng chính kiến bị bắt giam, ăn mày trên các
con đường chính của trung tâm bị đày vào một trại ở ngoại ô thành phố, để họ đừng
làm dơ bẩn hình ảnh chiến đấu của Sài Gòn trước đây, Thành phố Hồ Chí Minh ngày
nay. Nhưng không gì có thể che đậy được sự chán ngán trên các gương mặt của đại
đa số 3,5 triệu dân cư của nó.
“Đó là chiến thắng của họ, không phải của chúng tôi”, một
người Sài Gòn thì thào nói với con người xa lạ. “Đối với chúng tôi thì lễ kỷ niệm
này chỉ có nghĩa là bắt bớ và cúp điện. Họ cần điện để chiếu sáng chân dung của
bác Hồ.”
“Họ” và “chúng tôi” – mười năm sau cuộc chiến, sự chia rẽ giữa
người chiến thắng và người thua trận cũng vẫn còn không thể vượt qua được
Trước đây mười năm, khi những chiếc xe tăng đầy bụi bặm với
lá cờ Việt Cộng chạy ngang qua tòa Đại sứ quán Mỹ tiến tới dinh thự của tổng tống
Thiệu bại trận, khi những người lính du kích đầu tiên, gầy gò, rụt rè, trẻ tuổi,
kéo xuống đường Tự Do, con số ít ỏi của những người ngoại quốc có mặt trong lúc
đó đã khóc vì mừng rỡ: một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt, Việt Nam dường
như đã giành lại được độc lập, một dân tộc tái thống nhất bây giờ sẽ có hòa
bình và công lý – thời đó chúng tôi tin là như vậy.
Hòa bình đã không trở lại với Đông Dương. Hàng trăm người Việt
trẻ tuổi đã hy sinh trên các chiến trường Campuchia. Không có công lý, nếu như
công lý khác với việc lật đổ một xã hội và thay thế một chế độ độc tài bằng một
chế độ độc tài khác. Người Sài Gòn, rõ ràng là như vậy, ngày nay sống tồi tệ
hơn, phải chịu đựng tình trạng thiếu năng lực và tham nhũng nhiều hơn, sợ cảnh
sát nhiều hơn là trước kia.
“Cách mạng đã không thực hiện bất cứ lời hứa nào của họ”, một
người bạn nói. “Ngay cả người chết cũng bị lừa.” Trên nghĩa trang cũ ở Biên
Hòa, nơi nhiều người lính Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến chống cộng sản được
chôn cất ở đó, phần lớn các ngôi mộ đã bị xe ủi đất san phẳng – mặc dù chế độ mới
đã tạo một nghĩa trang riêng cho những người anh hùng đã hy sinh cho cuộc cách
mạng.
Đối với người sống, lời hứa hòa giải dân tộc còn được thực
hiện ít hơn như thế nữa.
Trong tháng Năm 1975, một sĩ quan từ quân đội của Thiệu được
lệnh đi “học tập cải tạo”. Ông mang theo mùng, bàn chải đánh răng và gạo cho 30
ngày đi trình diện; và ông cũng như tôi tin rằng sau 30 ngày ông thật sự sẽ trở
về.
“Nào phải 30 ngày! Thành 3289 ngày”, bây giờ ông nói; ông
còn có may mắn. Nhiều người lính, sĩ quan và nhân viên trước kia của chính quyền
bại trận đã chết trong các trại cải tạo. Nhiều người vẫn còn ở trong những trại
trong rừng đó, những trại mà các quan chức cộng sản ngày nay trong những khoảnh
khắc bất cẩn đã gọi chúng là “trại tập trung”.
Còn bao nhiêu người Việt Nam bị giam cầm ở đó? Chính phủ đưa
ra con số 7000. Có người ước đoán tới 100.000. Trong năm 1975, chế độ mới hứa hẹn
cho mỗi một người Việt Nam một nhiệm vụ trong cuộc tái xây dựng đất nước đã bị
tàn phá này. Ngày nay, hàng ngàn người trở về từ những trại cải tạo đó đều
không có một cơ hội nào.
Cái tội lỗi thuộc về một “chế độ bù nhìn” là không thể rửa sạch
được. Còn ngược lại, nó giống như một căn bệnh được di truyền từ cha sang con:
không có công việc làm cho những “tên bù nhìn”, không có chỗ cho con của họ
trong các trường trung học hay đại học.
Trong khi nhân viên cộng sản, toàn bộ đều từ miền Bắc, dọn
vào ở trong các khu biệt thự và nhà riêng của giới thượng lưu Sài Gòn cũ thì xã
hội Việt Nam bị quẳng ra đường phố và lang thang vất vưởng khốn khổ ở đó như một
bộ tộc đi lạc, bị nguyền rủa phải tuyệt chủng.
Sau chiến thắng của họ ở Campuchia, tên cộng sản thời đồ đá
Pol Pot và Khmer Đỏ đã phân người dân của họ ra thành hai loại: những người dân
đã sống dưới sự thống trị của cộng sản trước 1975, vì vậy mà có thể tin tưởng
được; và những người kia, những người đã không được hưởng lợi thế này, tức là
phải chiến đấu chống lại hay còn phải tiệt trừ hoàn toàn nữa.
“Những gì diễn ra ở đây trong Việt Nam cũng giống như Pol
Pot quay chậm”, một người bạn ở Sài Gòn nói.
“Chúng tôi đã chết rồi, nhưng chúng tôi vẫn còn có thể bước
đi. Tôi có cảm giác mình giống như một bóng ma từ một thời gian khác”, một phi
công trước đây của không quân nói, người có hơn tám năm trại cải tạo ở phía sau
mình và bây giờ có nhà của mình ở trên một băng ghế do Lions Clubs tặng ở dưới
tượng đài kỷ niệm Trần Hưng Đạo.
Sài Gòn vui sống ngày xưa đầy những bóng ma từ quá khứ như
thế. Có thể nhìn thấy họ ở khắp nơi: tóc dài, quần áo dơ bẩn, nhiều người có vết
thương hay ung nhọt không được băng bó, có người đi tha thẩn lạc lỏng, những
người khác làm các công việc khốn cùng: thiếu niên đi lang thang qua thành phố
với một cái kẹp và bao tải, để nhặt giấy vụn và bao nilon. Người trung niên với
vẻ mặt trí thức dùng ống tiêm bơm mực mới vào những cây bút bi cũ. Những ngưởi
khác ngồi cạnh một cái nón lính đổ đầy nước và vá xe đạp.
Ở Sài Gòn có 40.000 xe xích lô. Phần lớn người lái là lính
và sĩ quan cũ. Họ ngủ trên những chiếc chiếu ở trước tòa nhà quốc hội cũ và ở cạnh
những đài tưởng niệm của thành phố. Họ chui vào trong công sự có từ thời chiến
tranh để tránh mưa. Họ thường xuất thân từ những gia đình xưa, khá giả, ở Sài
Gòn và bây giờ thì thất nghiệp và vô gia cư, trở về từ “vùng kinh tế mới”, nơi
mà họ bị ép buộc phải đi tới đó.
Năm 1976, người ta có thể tới thăm một vùng kinh tế mới lớn ở
phía bắc của thủ đô, nơi hàng ngàn gia đình Sài Gòn cần phải biến miền đất
hoang vu thành đồng ruộng dưới ngọn cờ đỏ đang bay phấp phới. Không có nước lẫn
cây cỏ. Sau mười năm cố gắng, cuộc thử nghiệm đó được tuyên bố là vô vọng,
người dân chạy trốn trở về thành phố. Từ đó, không còn ai nói về vùng kinh tế mới
nữa. Chế độ của miền Bắc không thành công trong việc lấy được thiện cảm của người
dân miền Nam. Vì thế mà mười năm sau ngày giải phóng, hai Việt Nam vẫn còn sống
thù địch và nghi ngờ bên cạnh nhau.
Mười năm này cũng không mang lại sự hòa thuận cho những gia
đình bị cuộc nội chiến chia cắt, tái đoàn tụ qua giải phóng. “Người anh em cộng
sản của tôi đã tố cáo tôi là tư sản để cướp tài sản của tôi”, một người quen
thuật lại, người trước kia đã từng sở hữu một quán ăn. “Khi tôi trở về sau ba
năm ở trong tù, tường nhà tôi đầy lỗ vì hắn nghĩ rằng chúng tôi giàu lắm và đã
cất dấu vàng, thứ mà hắn muốn tìm cho ra.”
Ở Sài Gòn, bất cứ chức vụ quan trọng nào trong hành chánh đều
nằm trong tay của người Việt từ miền Bắc – bắt đầu từ người cảnh sát đứng ở ngã
tư và nhân viên bưu điện, người giám sát việc bán tem thư. Đứng trước chính
sách nhân sự này, người ta tự hỏi liệu chế độ cộng sản của miền Bắc có thật sự
muốn hòa giải dân tộc hay không, điều mà họ đã hứa hẹn trước đây mười năm, hay
là, thật lâu trước khi chiếm Sài Gòn, họ đã quyết định đánh giá toàn bộ người
dân miền Nam là không thể tin tưởng được.
Người ta cũng tự hỏi, liệu Hà Nội có ý thật sự nghiêm chỉnh
với việc “cải tạo” hay không, hay đó là một mưu kế để đánh đổ bộ máy quân sự và
dân sự của chế độ trước đây chỉ với một cú đánh. Cuối cùng, người ta tự hỏi, rằng
kế hoạch của những vùng kinh tế mới có thật sự xuất phát từ ý định tạo công việc
làm mới cho dân cư thất nghiệp của thành phố hay không; hay đó là một biện pháp
rẻ tiền thì nhiều hơn, để xua đuổi hàng ngàn gia đình Sài Gòn ra khỏi nhà ở của
họ và trao chúng về cho các gia đình từ miền Bắc.
Thật sự là vào năm 1975, ở Nam Việt Nam có hàng ngàn kỹ sư,
người tốt nghiệp đại học và người đã qua đào tạo sẵn sàng làm việc cho chế độ mới,
rằng chế độ mới này đã khước từ sự cộng tác của họ: một sự lãng phí lòng nhiệt
tình, khả năng và nhân tài hết sức to lớn.
Năm 1975, ở Sài Gòn có trên 2000 bác sĩ. 800 người đã ra đi
với người Mỹ, phân nửa số người lúc đầu còn ở lại đã rời bỏ đất nước trong vòng
mười năm vừa qua.
“Tôi không sợ nghèo khổ”, một người nói, người đã chịu đựng
được và không than phiền về việc từ năm 1975 không ai trong gia đình ông đã có
thể mua được một cái áo mới. “Nhưng thật khó mà chịu đựng được cái cảm giác
mình là người thừa.” Ngày nay, ông kiếm tiền bằng cách dạy tiếng Anh cho người
Việt đang chuẩn bị chạy trốn.
Trên một triệu người Việt đã rời bỏ đất nước của họ từ 1975,
nhiều người đã liều tính mạng của họ trên biển như là “boat people”. Cả cho tới
ngày nay, hàng tháng trung bình có khoảng 2000 người Việt cố gắng bỏ trốn.
(Còn tiếp)
Tiziano Terzani
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 18/1985: http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-13514174.html
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 18/1985: http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-13514174.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét