Mười năm sau chiến thắng của người cộng sản và thống nhất về
mặt hình thức của Việt Nam, thất vọng nhiều nhất chính là các trí thức của miền
Nam, những người đã chiến đấu chống chế độ của Thiệu trong Mặt trận Giải phóng
hay có thiện cảm với họ và vì vậy mà bị truy nã.
“Tất cả những gì mà Mặt trận Giải phóng đã hứa hẹn thì đều bị
Hà Nội hủy bỏ, kể cả chính Mặt trận Giải phóng”, một thành viên trước kia của
Việt Cộng than thở.
“Người cộng sản từ miền Bắc chỉ tin vào chính họ. Trong mắt
họ, cả chúng tôi cũng là ‘bù nhìn’”, một nhà cách mạng nổi tiếng từ miền Nam
nói, người đã chiến đấu cho Việt Cộng 29 năm trời.
Ngày nay, không ai trong số những người đã xuất hiện như là
lãnh tụ của Việt Cộng trong cuộc chiến là còn có ảnh hưởng nữa. Bà Nguyễn Thị
Bình, nữ bộ trưởng Bộ Ngoại giao duyên dáng của Việt Cộng, tuy là nữ bộ trưởng
Bộ Giáo dục ở Hà Nội, nhưng được cho là “nữ bộ trưởng trình diễn cho người nước
ngoài”. Người ta cho rằng các quyết định là do hai người phó của bà đưa ra, những
người thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Ngay đến Trần Văn Trà, tướng Việt Cộng, người đã giải phóng
Sài Gòn và cầm quyền vài năm, đã bị khóa miệng khi dám tranh cãi về phiên bản
giải phóng của Hà Nội trong một quyển sách. Quyển sách đó đã bị cấm. Ngày nay,
bốn nơi triển lãm chào mừng lần chiến thắng năm 1975 với hình ảnh, tài liệu và
vật kỷ niệm, những thứ mà các phái đoàn nước ngoài kính nể nhìn ngắm, cả một
phái đoàn từ Cộng hòa Liên bang Đức nữa, mang huy hiệu với hàng chữ “Việt Nam
là công việc của chúng tôi” ở trên ngực. Các vật triển lãm chỉ có nhiệm vụ chứng
minh cho một điều: vai trò của Hà Nội thời đó và sự lãnh đạo của Đảng ngày nay.
Người ta ít nói về cuộc chiến tranh nhân dân khó khăn mà Việt
Cộng đã tiến hành ở miền Nam. Ngày nay, hình ảnh tượng trưng cho lần giải phóng
Sài Gòn là hình ảnh của chiến xe tắng Bắc Việt đã đè bẹp chiếc cổng sắt dinh của
Thiệu, thay cho hình ảnh của du kích quân nông dân Việt Cộng, người lập những
chiếc bẫy bằng tre và tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô nhỏ nhiều tổn thất ở
hậu phương.
“Đó chính là lỗi của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ rằng chúng
tôi đã chiến đấu cho nền độc lập và thống nhất đất nước, nhưng thực tế là Hà Nội
đã đấu tranh để nền độc tài cộng sản chiến thắng”, bây giờ một linh mục Công
giáo nói, người đã hoạt động tích cực trong giới đối lập chống Thiệu.
Năm 1975, chế độ ra vẻ sẵn sàng khoan dung cho tất cả các
tôn giáo trong tương lai. Dường như họ đặc biệt nghiêng về phía những người
Công giáo đã chiến đấu cho cuộc cách mạng. Không lâu sau khi giải phóng Sài
Gòn, tờ nhật báo Công giáo “Tin Sáng” cũng đã được phát hành, còn được chính
quyền giới thiệu nữa. Thiệu đã thất bại trong việc cho giết chết người chủ và
phát hành tờ báo, Ngô Công Đức, rồi sau đó đã cấm tờ báo này.
Trước đây hai năm, tờ báo bị ngưng hoạt động. “Tờ báo đã
hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó”, thủ tướng Phạm Văn Đồng bình luận ở Hà Nội.
Ngô Công Đức, một nhà trí thức lỗi lạc, đã trở về từ chốn
lưu vong để phục vụ cho chế độ mới và giúp tái xây dựng, bây giờ vẽ tranh sơn
mài để xuất khẩu. Cũng như tất cả mọi người Việt, ông cần một giấy phép đặc biệt
nếu như muốn tiếp một người nước ngoài.
Dần dần, nhưng có hệ thống, người cộng sản đã gây khó khăn
cho việc thực hành tín ngưỡng. Những người Công giáo chống đối cũng như các
lãnh tụ của Hòa Hảo và Cao Đài đều bị bắt giam và khóa miệng, chùa Ấn Quang nổi
tiếng, trung tâm đối lập của Phật giáo chống Thiệu, bị giám sát nghiêm ngặt,
người lãnh đạo về mặt tinh thần của nó, nhà sư Thích Trí Quang, bị quản thúc tại
gia.
Bộ máy Đảng và hành chánh của Bắc Việt Nam đã đứng vững ở miền
Nam mà không gây ra nhiều chống đối. Trong những năm đầu tiên còn có những tổ
kháng chiến vũ trang chống lại những người chủ mới. Một đài phát thanh bí mật
còn giữ được hy vọng của một bước ngoặc trong một khoảng thời gian. Tất cả những
điều đó đã qua rồi. Chế độ mới không còn gặp chống đối chủ động nữa. Con người
đã chấp nhận sự việc, rằng họ phải đối phó với hệ thống này.
Một cảnh sát trên một trăm gia đình và một mạng lưới chỉ điểm
khó nhận biết giữ người dân trong vòng kiểm soát, những người trước sau gì thì
cũng phải cần giấy phép để đi lại hay qua đêm ở nhà bạn bè. “Công an” (an ninh
công cộng) là tổ chức đáng sợ nhất đối với tất cả các người Việt.
“May là có thể mua được họ”, một người buôn bán nói mỉa mai
về các cảnh sát. Tất cả đều có giá của nó, từ thị thực xuất cảnh cho tới việc
phân cho một chỗ làm.
Với một vài tờ tiền, người ta có thể tránh được nhiều hình
phạt: một người đi xe đạp bị chận lại vì không chú ý tới đèn đỏ nhét 20 đồng
vào tay người cảnh sát. “Không, không”, người này nói, “tôi phải nhìn thẳng
vào mắt Bác Hồ.” Người đi xe đạp hiểu và thay vì tờ 20 đồng, mà trên đó chỉ
nhìn thấy ảnh chụp nghiên của Hồ Chí Minh, đã đưa ra tờ 50 đồng, cái thể hiện hết
gương mặt của ông ấy. Người cảnh sát cầm lấy.
Tham nhũng là lệ thường, không phải là trường hợp ngoại lệ.
“Lênin nói rằng chủ nghĩa xã hội là quyền lực Xô viết cộng với điện khí hóa”, một
người bạn nói đùa. “Trong chế độ này thì nó là quyền lực công an cộng chợ đen.”
Điều thường được chấp nhận, là mỗi người đều cố gắng để sống
qua ngày, trong khả năng của người đó. Vì thế mà thầy giáo bán bánh cho học
trò, lính lấy trộm xăng từ xe quân đội, nhân viên hải quan tận tâm ở phi trường
tịch thu tất cả các băng video của người nhập cảnh: với lý do phải kiểm tra nội
dung, thật ra là để tổ chức những buổi trình chiếu tư ở gần khách sạn Tong
Binh. Giá vào cửa: 50 đồng một người.
Cán bộ Đảng đã du nhập thông tục của miền Bắc vào Nam, nuôi
heo trong nhà ở của họ và cho chúng ăn bằng thức ăn gia súc của nhà nước.
Thành phố Sài Gòn thanh lịch của ngày xưa gặp heo như thế
đó. Ở khắp những nơi có cán bộ sống, người ta nghe được tiếng heo kêu và đánh
hơi, ngay cả tướng cao cấp của quân đội cũng chú ý tới việc có một con heo
trong phòng khách của họ, khi họ mời khách đến nhà ăn tiệc: con vật phục vụ như
là một lời giải thích cho mức sống cao đó, cái mức sống mà ngoài ra thì chỉ có
thể xuất phát từ buôn bán ngoại tệ hay buôn thuốc phiện ở Lào và Campuchia.
“Năm 1975, tôi cho rằng chế độ mới hoặc là hồng hoặc là đỏ”,
một luật sư trước đây nói, người lúc đó đã từ chối không rời bỏ đất nước. “Tôi
không bao giờ nghĩ rằng nó có thể là xám. Chế độ này đã lấy đi tất cả mọi niềm
vui thích trong trái tim của chúng tôi. Đó là bi kịch của chúng tôi.”
Danh tiếng của ưu thế về đạo đức, cái mà người cộng sản đã
hưởng được ngay sau khi giải phóng, đã lu mờ khi người dân nhận ra được rằng
“hành vi của họ được quyết định bởi lợi ích cá nhân, đạo đức của họ là đạo đức
giả, và họ không bao giờ làm điều họ nói”, theo một nữ sinh viên, người 18 tuổi
vào ngày giải phóng.
Trong khi các cô gái bán dâm của Sài Gòn cũ vẫn còn bị cải tạo
trong một trại thì Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ đã có gái bán dâm riêng mà
vài người trong số đó còn tới từ Hà Nội nữa. Con số của họ tất nhiên là thích hợp
với số khách đã giảm xuống, và hệ thống giá cả hoạt động khác với trước đây.
Thay vì phải trả tiền cho người gác cổng thì bây giờ phải trả tiền cho các cảnh
sát an ninh của khách sạn, “giá cả tăng với tầng lầu mà người ta muốn làm tình ở
trên đó”, một người khách thường xuyên của Sài Gòn nói.
Không thể không nhìn thấy sự khác biệt giữa những lời tuyên
bố công khai của chế độ và hiện thực. Hệ thống chăm sóc sức khỏe tự nó là không
mất tiền cho tất cả, nhưng thuốc chữa bệnh thì không có trong bệnh viện. “Ai muốn
được mổ thì tốt nhất là nên mua trước thuốc gây mê và chỉ khâu trên thị trường
chợ đen”, một bác sĩ nói.
Trong kinh tế, người cộng sản đã phạm lỗi lầm lớn nhất của họ.
Đầu tiên, họ đóng cửa tất cả các cửa hàng tư nhân và truy lùng các thương gia của
khu phố người Hoa Chợ Lớn như là những kẻ đầu cơ. Nhưng rồi khi họ nhận ra là đất
nước đã gần sụp đổ thì họ lại giảm áp lực và còn yêu cầu người Hoa lại hoạt động
tích cực trở lại nữa.
“Xổ số, xổ số là hy vọng cuối cùng của chúng tôi”, một người
bán thuốc lá nói. Thay vì một lần trong một tuần, như vào thời của Thiệu, ngày
nay Sài Gòn có ba cuộc xổ số một ngày. Hàng đoàn người trẻ tuổi đi bộ qua thành
phố vào lúc sáng sớm với hàng cọc vé xổ số, mười đồng một tờ, giá độc đắc
100.000 đồng. Rồi cả thành phố bất động vào buổi chiều lúc năm giờ, khi các con
số trúng được viết bằng phấn trắng trên các tấm bảng ở chợ và đường phố.
Người Việt Nam có thu nhập trên đầu người là 102 đô la Mỹ một
năm. Nghèo khổ và không hài lòng (“Ngay cả Bộ Chính trị cũng không hài lòng”, một
quan chức Đảng nói đùa), cung cấp thiếu thốn triền miên và chiến tranh đã trở
thành một phần của cuộc sống hàng ngày của người dân.
“Chúng tôi đã giành lại được nền độc lập của chúng tôi,
chúng tôi đã thống nhất đất nước của chúng tôi, và bây giờ thì giống dân Việt
cũng khai phá đất mới ở phương tây”, một giáo sư từ Sài Gòn nói, người mang ấn
tượng về các thành công quân sự của người cộng sản.
Viện cớ muốn bảo vệ Lào, người Việt đóng 40.000 quân ở đó;
viện cớ giải phóng Campuchia ra khỏi chế độ độc tài của Pol Pot, họ có một đạo
quân chiếm đóng gồm 180.000 người lính ở đó.
Nhờ vào sức chịu đựng riêng mà Việt Nam đã có được những
thành công ở vẻ ngoài của nó, nhưng cũng nhờ vào một khả năng dùng thủ đoạn
đáng ngạc nhiên: dưới áp lực của siêu cường Hoa Kỳ, khi Trung Quốc ngừng giúp đỡ,
Việt Nam đã ngã vào vòng tay của Moscow. Ngày nay, khi người Trung Quốc và người
Nga lại tiến gần tới nhau, người Việt cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ.
Trong lúc đó, họ khéo léo lợi dụng cảm giác có lỗi với Việt
Nam của Mỹ – và tự thể hiện mình rất hào phóng. Nhân dịp kỷ niệm mười năm, trên
150 nhà báo Mỹ được mời vào trong nước cho một chuyến tham quan được điều khiển
tốt và được giám sát kỹ lưỡng.
Đài truyền hình Mỹ NBC dự định truyền trực tiếp hàng ngày từ
Sài Gòn trong tuần lễ kỷ niệm, qua một vệ tinh mà trạm mặt đất của nó được chở
bằng máy bay tới. Đài cạnh tranh ABC cố gắng không thua kém với một vệ tinh do
Xô viết sản xuất, nhưng vẫn còn chưa hoạt động được, Hoa Sen 2. “Người Nga phải
làm sao cho nó phát tín hiệu”, người Việt nói, “vấn đề là uy tín của phe xã hội
chủ nghĩa.”
Người Việt đã đòi những khoảng tiền đáng ngạc nhiên từ người
Mỹ cho những phóng sự về buổi lễ tung hô nỗi nhục nhã của nước Mỹ: 100 dollar Mỹ
mỗi ngày cho một phiên dịch viên, một cuộc phỏng vấn với một giàm đốc nhà máy
có giá 200, với phó của ông ấy là 100.
“Các anh đã quay máy bay ném bom MiG và xe tăng trong lúc
chiến đấu, và các anh cũng biết giá xăng kia mà”, sếp báo chí của chính phủ Hà
Nội nói với một thông tín viên truyền hình Mỹ trước một hóa đơn trên 6000
dollar mà người này nhận được.
Khi Washington không bước đến đứng cạnh họ với trợ giúp kinh
tế trong khuôn khổ rộng lớn, thì người Sài Gòn ở miền Nam, tự nó thật ra là
giàu có, sẽ còn phải sống khổ cực một thời gian lâu dài nữa. “Thịnh vượng?” một
nhân viên nhà nước cao cấp của Việt Nam nói. “Các thế hệ con cháu chúng tôi sẽ
có nó.”
Những đứa con này được giáo dục nghiêm khắc, đồng nhất và
theo đúng đường lối. Tất cả sách giáo khoa được in trước 1975 đều bị cấm. Chỉ
có 71 người đọc là được phép vào thư viện cũ của Pháp mà giám đốc của nó là sếp
an ninh Von Vung Tao trước đây.
Những đứa con này diễu hành, các em tập bắn súng, các em chuẩn
bị để bảo vệ tổ quốc của các em. Các em lớn lên mà không khao khát một thế giới
khác, không có khả năng so sánh, hãnh diện là thuộc một dòng giống đã chiến thắng
ba quốc gia lớn – người Trung Quốc, người Pháp và người Mỹ.
Chẳng bao lâu nữa giới trẻ lớn lên như thế từ miền Nam, những
người bây giờ gia nhập quân đội để được người Bắc huấn luyện, sẽ cứng rắn và dẽo
dai như những người đồng lứa tuổi với họ từ Hà Nội. Một vài thập niên nữa, và
Việt Nam thật sự là sẽ thống nhất – bởi một giống người duy nhất.
Cho tới chừng đó, cả một thế hệ của những bóng ma sẽ biến mất,
những bóng ma mà giờ đây đang sống trên khắp miền Nam và không nhìn thấy điều
gì tốt đẹp trong chế độ mới.
“Có thật sự là không có gì tốt đẹp không? Một người bạn lâu
năm trả lời cho câu hỏi này: “Có, có chứ, người cộng sản đã làm cho tôi sáng mắt
ra. Trước 1975 tôi cần dùng một cái kính mắt, bây giờ thì tôi vẫn nhìn thấy mà
không cần có nó.”
Tiziano Terzani
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 18/1985: http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-13514174.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét