Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Nhức nhối vì đạo đức trong đời sống văn hóa tại Việt Nam

vanquang011129
Trong hai ngày 11 và 12/11 vừa qua, tại thành phố Sài Gòn diễn ra hội thảo khoa học mang tên “Vấn đề đạo đức xã hội trong văn học, nghệ thuật hiện nay”. Nói là văn học nghệ thuật nhưng thật ra chỉ có vài mặt được các nhà “làm văn hóa” mang ra bàn cãi. Đó là những chuyện về ca nhạc, truyền hình, phim ảnh. Còn những vấn đề lớn hơn như báo chí, tác phẩm văn học, nghiên cứu, phê bình… không thấy bàn tới. Nếu mang tuốt luốt ra “hội thảo” chắc cả tháng chưa hết, có cả trăm cả ngàn chuyện phải bàn.
Chỉ cần lấy một thí dụ như chuyện 13 năm nay, cuốn “Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh” của Vũ Chất, có logo của NXB Trẻ, vẫn chễm chệ trên các kệ sách và ngay cả trong thư viện quốc gia và thư viện lớn nhỏ khắp nước, đến nay mới bị phát hiện ra là “thảm họa” về ngôn từ.
Thật khiếp đảm với những “khái niệm ẩu tả” được đặt ra từ cuốn từ điển mà chính nhà xuất bản Trẻ không nhận là do mình in ra này. Vậy nó ở đâu chui ra, qua mắt được các quan kiểm duyệt có tiếng là khắt khe, không ai biết?
Tạm kể vài danh từ được dạy cho học sinh và cũng như “kim chỉ nam” cho người lớn, như: bồ bịch là… bạn bè thân thích, đồn trưởng là… trưởng đồn, lâu đài là… lầu và đền đài, thơ ngây là… ngây thơ, cào cấu là… vừa cào vừa cấu, bế mạc là… chấm dứt buổi hát, bản sắc là… màu tự nhiên, bóng đèn… là bóng làm bằng chai trong có tim đốt được bằng hơi điện, buồn cười… là buồn mà cười…
Định nghĩa như thế thì quả là một “thảm họa” và phá nát tiếng Việt của bao nhiêu thế hệ. Đấy là chưa nói đến những kiểu chữ nghĩa mới phát sinh đầy rẫy trên các trang báo, các trang sách dạy học và trong ngôn ngữ dùng lâu thành thói quen như đề xuất, kiến nghị, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, v.v… hoặc nói ngược lại với những từ ngữ ông cha ta dùng từ thời xưa như “bảo đảm” thành “đảm bảo”, hoặc nói tắt như “cấp trên đã “quyết” rồi” có nghĩa là đã quyết định và chấp thuận rồi, và còn nhiều thứ chữ nghĩa lai căng kiểu nửa ta nửa Mỹ nữa, kể ra không hết. Chắc nhiều bạn ở nước ngoài lâu năm nghe muốn ù tai.
Còn báo chí cũng không được nhắc tới trong kỳ “hội thảo” này bởi ở Việt Nam hiện nay có tới 838 cơ quan báo chí, 67 đài phát thanh truyền hình với đội ngũ nhà báo lên tới 40.000 người nhưng tuyệt đối không có một tờ báo nào là của tư nhân. Không hiểu sao các ông “làm văn hóa” không bàn đến vấn đề sống còn này của giới cầm bút. Vấn đề báo chí bị “bỏ quên” nên chưa biết đến bao giờ ở Việt Nam mới có một tờ báo của tư nhân được quyền nói tiếng nói của mình chứ không phải là của một cơ quan nào. Nhưng trên hết, dù là báo của ai, vẫn là vấn đề THÔNG TIN TRUNG THỰC TẤT CẢ MỌI LOẠI TIN TỨC. Còn bóp méo thông tin, còn bưng bít sự thật thì tờ báo đó sẽ bị đào thải.
Trong thời đại internet phát triển rầm rộ hiện nay, không thể nào cấm cản nổi mọi người lên internet xem mọi nguồn tin từ trong đến ngoài nước. Dù có là luật hay quy định quyết định gì cũng thế thôi. Báo nào loan tin đúng nhất, nhanh nhất sẽ được độc giả đón đọc. Cho nên, dù không có báo chí tư nhân trong nước thì họ tìm đến những trang báo ở nước ngoài. Đó chính là cách làm cho thông tin nước ngoài phát triển, dù có bưng bít hay loan tin kiểu bóp méo chỉ là mất công vô ích mà thôi. Còn về mặt sáng tác văn học hay một cuốn sách, cuốn truyện ngắn, truyện dài, bao lâu nay có tìm được tác phẩm nào đáng gọi là tiêu biểu đâu. Thứ văn học này coi như chìm lỉm mất tăm.
Thảo luận đến những vấn đề “nhạy cảm” như thế này có phần đụng chạm lung tung và bàn đết… Tết Congo cũng chưa hết, nên bàn gọn lại cho được việc.
Trở lại với những vấn đề trong cuộc “hội thảo” từ ngày 11/11 đế 12/11 tại Sài Gòn, có tới hàng trăm bản tham luận và hơn 200 người tham dự. Trước hết tôi phải thành thật nhận định là đã có một số ông có can đảm nói thẳng sự thật. Thứ sự thật mà lâu nay ai cũng biết nhưng chỉ không muốn hay không dám nói ra mà thôi.
Đống nhạc rác tại Việt Nam
Mời bạn nghe một câu hát trong bài ca khúc “Con thỏ chiên bánh” có câu hát rất… chợ búa “Anh có một sở thích kỳ lạ là ăn thịt thỏ. Nhưng mà anh chưa có cơ hội bỏ em vào nồi”. Hoặc công chúng phải căng tai ra nghe “Con trai bây giờ í hả, 100 đứa thì 99 đứa không đàng hoàng, còn một đứa không đàng hoàng là gay, a ha!” trong bài “Con gái thời nay”. Đấy là kiểu được gọi là “nhạc rác” trong cái đống rác ở Việt Nam.
Thú thật với bạn đọc, một buổi tối chẳng có gì xem vô tình tôi bật ti vi lên xem đỡ, gặp một chương trình ca nhạc rất “hoành tráng”, các em chân dài tóc xanh tóc đỏ nhảy múa loạn xạ, chỉ vận một bộ bikini óng ánh để khoe hết cỡ các loại vòng 1-2-3. Thoạt tiên tôi cứ ngỡ là ban nhạc Hàn Quốc đang trình diễn tại Việt Nam, nhưng nghe kỹ thấy loáng thoáng có tiếng Việt. Lúc đó mới biết là ban nhạc “xịn” của mấy cô trong giới showbiz làm album mới. Tôi cố gắng lắm mới nghe được mấy câu rỗng tuếch như “anh xa em làm em buồn tỉ tê” cứ như cái triết lý “em không ăn thì em đói”. Và cứ những lời ca tương tự như thế kéo dài. Tôi đành bỏ cuộc bật sang đài khác và vẫn giữ vững ý định chẳng bao giờ nghe loại ca nhạc “mới” này nữa cũng như chẳng bao giờ đụng đến các loại phim Việt Nam. Tôi cứ nghĩ soạn nhạc dễ như thế thì ai chẳng “sáng tác” được, chẳng trách ở Việt Nam đi đâu cũng gặp ca nhạc sĩ, loạn là đúng. Ca sĩ hát và khoe thân tìm một chỗ đứng hay một cánh tay hào phóng là chính.
Ca từ rác rưởi, ngôn từ vỉa hè sáo rỗng
Tiến sĩ Trần Luân Kim, trong bài tham luận của ông, đề cập đến vấn đề đạo đức ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Theo ông, với sự ra đời non vội, thiếu suy tư nghiêm túc, lại rơi vào vòng xoáy của thị trường tự do, dòng nhạc mới mẻ này bị thương tổn nặng nề bởi hàng loạt ca từ rác rưởi, ngôn từ vỉa hè sáo rỗng, tùy tiện, lủng củng. Có khi tục tĩu gây sốc, có khi lại sướt mướt não nề, gào thét vô vọng.
Nhạc sĩ Nguyễn Thị Minh Châu cảnh báo lối “đào tạo tắt”, hứa hẹn giải thưởng như một dạng chứng chỉ vào nghề ở nhiều chương trình đã làm dấy lên phong trào ăn xổi, chạy đua, nhái hàng (nhái nhạc, nhái giọng, nhái hình thức, nhái phong cách) và sính ngoại (hát và sáng tác bằng tiếng Anh, hoặc chơi món “xôi đỗ” cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt).
Ngay cả hội đồng lý luận, phê bình trung ương – đơn vị tổ chức sự kiện này, cùng đại biểu gặp nhau ở một điểm chung khi cho rằng: Mọi lĩnh vực đời sống nghệ thuật, từ âm nhạc, sân khấu, văn học đến nhiếp ảnh, điện ảnh… đều đang tồn đọng yếu kém, phát triển về chiều rộng mà thiếu chiều sâu, “lỗi nhịp” trong việc định hình, mang đến chuẩn giá trị cần thiết để xây dựng nền tảng đạo đức, phát triển đời sống tinh thần của xã hội.
Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Vương Duy Biên nhận định một cách khái quát hơn: “Để có được một xã hội đạo đức thì phải có những con người đạo đức. Tương tự, để có những tác phẩm văn học, nghệ thuật đạo đức thì cũng phải có những người nghệ sĩ đạo đức”.
Có thể nói vấn đề đạo đức trong lãnh vực nghệ thuật đã được đưa lên hàng đầu trong cuộc “hội thảo” này. Khi mà đạo đức xã hội đang suy đồi thì làm sao có được những nghệ sĩ có thực tài, có tâm huyết với nghệ thuật. Khi mà văn hóa còn đang có “chiếc gậy chỉ huy” cầm chịch, phải đi theo đường này hay đường kia, khi mà những giới hạn được đặt ra như chiếc vòng kim cô thì nghệ thuật cũng chỉ như con kiến bò quanh miệng lỗ mà thôi. Thế nên với hàng trăm bản tham luận và những lời lẽ gay gắt chứa đựng một tâm trạng bất bình cao độ của giới “làm nghệ thuật”.
Không chỉ lĩnh vực âm nhạc, đời sống nhiếp ảnh, hội họa, văn học, sân khấu… cũng nhan nhản những “tác phẩm” giả, hàng nhái, tác phẩm kém chất lượng.
Tác giả Văn Minh Hương, Lê Đỗ Quỳnh Hương bàn đến “Truyền hình thực tế âm nhạc và vấn đề đạo đức xã hội”, phản ánh về một đời sống âm nhạc đang “ký sinh” trên các chương trình truyền hình thực tế.
Chương trình truyền hình thực tế về âm nhạc nở rộ với tên gọi na ná, cách thức chơi giống nhau, bài hát trùng lặp, gương mặt giám khảo cũ mòn, như: Giọng hát Việt, Ngôi sao Việt, Học viện Ngôi sao, Đố ai hát, Tôi dám hát, Ai dám hát, Ngôi nhà âm nhạc… Nhiều show, vì mục đích thương mại, đã tận dụng tối đa các chiêu trò để câu kéo khán giả, khiến giá trị âm nhạc bị đẩy xuống thứ yếu. Đó là khái quát về âm nhạc và các chương trình truyền hình. Về phim ảnh cón bi đát hơn.
Điện ảnh Việt Nam dột từ nóc dột xuống
Đạo diễn Đặng Nhật Minh khẳng định, nếu nói tóm lược, điện ảnh trong nước có thể được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn không vì tiền và giai đoạn vì tiền. Ông nhận xét, ngay cả ở thời kỳ nước nhà thiếu thốn, khó khăn, phim làm ra không phải vì tiền vẫn là những tác phẩm tốt. Còn hiện tại, phim nhảm quá nhiều, “… Kể cả các phim đoạt giải Bông Sen Vàng cũng chẳng thấy yếu tố bản sắc dân tộc ở đâu, chỉ thấy lai căng, thương mại”.
Tuy vậy, các ý kiến “đổ lỗi” cho đồng tiền và nền kinh tế thị trường cũng có những ý kiến trái chiều khác. Nhiều ông cho rằng, vấn đề cốt lõi quyết định chất lượng của một tác phẩm không chỉ nằm ở tác động của đồng tiền mà còn ở: tài năng của tác giả, tầm nhìn chiến lược văn hóa của một quốc gia, phông văn hóa và tri thức của người thụ hưởng tác phẩm…
Ông Đào Duy Quát, người chủ trì buổi thảo luận ở tiểu ban Nghệ thuật, cho rằng, với diện mạo chung đang “DỘT TỪ NÓC DỘT XUỐNG”, thì trách nhiệm cần được đặt từ các cấp quản lý ngành văn hóa đến bản thân giới văn nghệ sĩ…
Vì vậy, để đời sống văn hóa, nghệ thuật nước nhà phát triển tốt hơn, rất cần một thời gian dài đòi hỏi nhiều nỗ lực, can đảm trong thay đổi hệ thống về tư duy, lý luận và nhận thức thẩm mỹ, từ đó, áp dụng chúng vào đời sống thực tiễn.
Phim càng nhảm nhí thì càng thu lắm tiền
Câu hỏi được đặt ra là tạo sao “phim càng nhảm nhí thì càng thu lắm tiền?” Điều này đã trở thành tiêu chí hàng đầu trong cách làm phim của các đạo diễn bây giờ? Trả lời cho câu hỏi, chính tác giả (Đạo diễn Đặng Nhật Minh) cũng đã khẳng định điều này là có và khiến ông phải suy nghĩ khá nhiều khi những nhận định ấy lại được phản hồi từ một số đạo diễn và người trong nghề. Có lẽ, yếu tố kinh doanh và lợi nhuận ngày càng lấn át hết giá trị văn hóa và nghệ thuật chân chính trong các bộ phim đương đại.
“Có người bảo, tuy những phim đó bị gọi là nhảm nhí nhưng đạo diễn của phim thì có tay nghề. Đây có phải là sự ngộ nhận? Thật ra, với con mắt của người trong nghề thì họ chẳng có tay nghề gì hết. Họ chỉ học được một vài thủ pháp, kỹ xảo của nước ngoài, mà nhiều kỹ xảo bây giờ có thể lấy từ trên mạng xuống một cách dễ dàng. Nếu gọi đó là nghề thì đó là nghề bắt chước”.
Lý giải cho những bộ phim “nhảm nhí” mà hầu hết là phản ánh những câu chuyện trong giới showbiz, giới đại gia, chân dài, ở nhà biệt thự, đi xe hơi này, Đạo diễn Đặng Nhật Minh nói: “Làm nghệ thuật là phản ánh thực tế mà mình đang sống. Môi trường sống của đội ngũ đạo diễn hiện nay lại chủ yếu là giới showbiz, là các ca sĩ, là các đại gia… Môi trường sống mà họ đã từng sống như vậy nên họ phản ánh cuộc sống trên phim như vậy là điều dễ hiểu. Họ chẳng gắn bó gì với nông thôn thì làm sao để phản ánh được nông thôn trên phim…”
Còn những phim bỏ ra hàng chục tỉ nhưng không bán nổi một vé. Cụ thể như phim “Sống cùng lịch sử” của Hãng phim truyện Việt Nam chi phí 21 tỉ đồng nhưng chiếu ở rạp có ngày không bán nổi 1 vé. Đây là điều không còn mới bởi “Sống cùng lịch sử” cũng như nhiều phim “cúng cụ” khác đều chịu cảnh bị khán giả ghẻ lạnh, lặng lẽ ra rạp rồi nhanh chóng đi thẳng về kho. Cả chục tỉ đồng được đốt vào một bộ phim, ngốn công sức của bao nhiêu người trong cả một thời gian dài, cuối cùng không có người xem thật sự là ‘’thảm họa’.
Với những tiết lộ từ trong “ruột” làng đạo diễn Việt Nam như trên thì đừng hỏi tại sao người Việt Nam quay lưng với phim ảnh Việt Nam dù là xem miễn phí trên truyền hình có sẵn trong nhà. Vậy người Việt Nam xem phim gì?
Có thể nói ngay cả những người ở vùng quê bây giờ cũng chẳng ai xem phim Việt Nam nữa bởi cái sự cố “làm mới” phim ảnh đã trở thành lai căng vốn có của nó với các nữ diễn viên tay ngang, chân dài và các chàng công tử nửa mùa, bắt chước các chàng trai Nam Hàn. Còn phim hài thì càng tệ, lại những khuôn mặt cũ rích với lối chọc cười dung tục, chỉ thấy quát nạt la lối om xòm, phùng mang trợn mắt, xỏ xiên không thể chấp nhận được. Những nhà ở thành thị như tiểu thương, trung lưu, nếu có con nhỏ, họ mở các đài chuyên về phim hoạt hình cho con cái. Còn người lớn hầu hết xem phim Hàn, phim Hồng Kông, Đài Loan, Philippines hoặc phim Mỹ, phim Pháp.
Phim Hàn đang xuống dốc thê thảm
Vài năm trước đây, nhà nào cũng xem phim Hàn, nhưng bây giờ phim Hàn trên các đài truyền hình Việt Nam khó mà tìm được một phim đáng xem. Phim Hàn đang xuống dốc thê thảm. Hầu hết là phim cũ được chiếu đi chiếu lại từ đài này qua đài khác. Có lẽ vì phim Hàn một thuở được xem là đắt hàng nhất đối với người Á châu ở nhiều nước trên thế giới chứ chẳng riêng gì ở Việt Nam. Vì thế họ cố sản xuất cho thật nhiều, nhiều đến nỗi phải vơ bèo gạt tép, nhặt nhạnh cả những tài tử xấu xí rồi cho ăn diện đẹp lên để quảng cáo cho thời trang của họ. Còn truyện phim cứ na ná giống nhau với “đặc điểm” là cảnh nào cũng có ăn nhậu, uống rượu và uống liên miên, già trẻ lớn bé gì cũng uống, bất kể trong trường hợp nào. Lại chuyện ông giám đốc bà giám đốc với con chung con riêng, con đi lạc và những mối tình hợp rồi tan, tan rồi hợp, mất trí vào bệnh viện. Phim nào cũng cố kéo dài lê thê hàng trăm tập, cứ nhòa nhòa nhạt nhạt, nhắc đi nhắc lại phát sốt ruột.
Về tình tiết dẫn dắt truyện phim thì đầy rẫy những chuyện vô lý cũng cứ thản nhiên đưa vào phim miễn làm sao cho nó lâm ly bi đát, gay cấn là được. Khán giả không ngu gì mà thưởng thức mãi những chuyện phi lý như thế. Vừa xem phim vừa bực mình nên khán giả Việt bây giờ cũng bắt đầu quay lưng với phim Hàn. Họ tìm đến phim của các nước khác. Nhưng hầu hết các Đài truyền hình Việt Nam cũng chỉ có một lô phim cũ, cũng mang ra xào đi nấu lại, rất ít khi có phim mới. Có thể nói khán giả Việt Nam đang “đói phim”. Nếu phim Hàn cứ cái đà xuống dốc này cũng sẽ rơi vào loại “thảm họa” trong một ngày không xa.
Một thứ “tệ nạn” nữa là các chương trình chiếu phim thường lợi dụng để quảng cáo đủ thứ hầm bà lằng. Cứ 15 phút chiếu phim lại có khoảng từ 5 phút có khi đến 10 phút chiếu quảng cáo. Tính ra một buổi tối xem phim, phải xem đến vài chục lần quảng cáo như nhau, nhẵn mặt mọi nhân vật, khiến khán giả
muốn… chửi thề. Một ông bạn tôi nói: “Nếu cái ti vi biết đẻ thì đã có hàng tỉ tỉ chiếc ti vi con ra đời rồi”. Đúng là các đài này không biết ngượng với khán giả của mình, họ cứ trơ tráo kiếm tiền, còn thích hay không cũng mặc, bề nào anh cũng phải thuê một đài chứ chẳng lẽ ti vi để không.
Thật buồn cho văn hóa và đạo đức Việt Nam. Còn nhiều chuyện để bàn về vấn đề này, tôi sẽ tường thuật tiếp vào số báo sau.
Văn Quang
21-11-2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét