…chính quyền Việt Nam đang tự cho phép mình mất chủ quyền về tiền tệ ở vùng biên giới, biến các tỉnh này thành vùng đầu tầu giúp Trung Quốc tiến công xâm nhập vào thị trường Việt Nam bằng quyền sử dụng Nhân dân tệ.
Lời nói đầu :
Ngày đầu năm nay, theo báo Hải quan, "Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Trung Quốc vừa có kiến nghị gửi một số cơ quan chức năng ở Việt Nam đề nghị cho phép mở rộng phạm vi giao dịch đồng Nhân dân tệ". Thông tin này đã được báo chí (cả chính thống và "ngoài lề") đăng lại, và bình luận (cả về các khía cạnh kinh tế và chính trị) - như trong bài này của Tiến sĩ Lê Đăng Doanh. Do phản ứng chống đối gần như nhất trí của báo chí Việt Nam mà phía Trung Quốc đã rút lại đề nghị, hay thực ra thông tin của báo Hải quan không chính xác, nên sau vài ngày "nóng" thì sự việc có vẻ như đã chìm xuống. Chìm nhưng có thật là không có gì đằng sau ? Chúng tôi nhận được bài dưới đây của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, với vài "lời nói đầu" như sau :
Tác giả nghe tin không chính thức là phía Trung Quốc không nói với phía Việt Nam như báo đã đăng. Nội dung kiến nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc với Việt Nam như thế nào vẫn chưa được công bố và báo chí Việt Nam đưa tin về kiến nghị của phía Trung Quốc vẫn chưa cải chính. Vì thế việc đăng bài này vẫn không phải là thừa.
Không hồ nghi gì về mức độ thâm hiểm của anh hàng xóm khổng lồ này và đồng ý với nhận định của tác giả, Diễn Đàn xin trân trọng giới thiệu bài viết với bạn đọc.
Có vài câu hỏi đặt ra cần trả lời :
1. Có nên cho phép dùng Nhân dân tệ (Nhân dân tệ) trong các thanh toán giữa các đối tác trong nội bộ nền kinh tế Việt Nam ?
Câu trả lời phải là không.
Không một nước nào muốn có một nền kinh tế độc lập, lại muốn xóa bỏ khả năng điều hành chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép sử dụng rộng rãi vàng hay ngoại tệ trong thanh toán nội địa, dù nó là đồng Nhân dân tệ hay USD. Sử dụng ngoại tệ một cách rộng rãi chứng tỏ rằng người dân không còn tin nội tệ và muốn giữ nó, đưa đến việc nội tệ mất giá.
Tuy vậy phải nói có nhiều mức độ mà ngoại tệ được dùng trong nền kinh tế.
Mức độ thứ nhất là cho phép dùng ngoại tệ trong trao đổi một cách có kiểm soát. Cách này thì Việt Nam, Trung Quốc trước đây đã dùng và Cuba hiện nay vẫn đang làm. Cách này chỉ có thể áp dụng với các nền kinh tế bị phong tỏa, thiếu ngoại tệ.
Mức độ thứ hai là việc xóa bỏ toàn bộ nội tệ để dùng một ngoại tệ như đồng Euro trong khối các nước EU, hay như việc một vài đảo quốc nhỏ bé ở vùng Caribean sống nhờ vào du khách Mỹ nên đã quyết định dùng USD làm nội tệ. Các quốc gia này hoàn toàn mất khả năng điều động chính sách tiền tệ. Không thể phá giá đồng bạc để làm hàng hóa rẻ đi, tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu, giúp tăng khả năng trả nợ. Họ chỉ có thể đuổi việc, giảm lương nhanh chóng để nâng cao tính cạnh tranh. Nhưng điều này về mặt chính trị là không thể, nên phải để thị trường tự điều chỉnh bằng khủng hoảng kinh tế kéo dài. Đó là trường hợp của Hy Lạp hiện nay. Tất nhiên Trung Quốc không dám đề nghị đến mức độ này với Việt Nam trừ khi Việt Nam chịu làm thành viên trong một liên bang cầm đầu bởi Trung Quốc trong đó chỉ có một đồng bạc được sử dụng là Nhân dân tệ.
Mức độ thứ ba mà hình như Trung Quốc đề nghị Việt Nam cho phép dùng cả hai đồng tiền như đã đề cập ở đoạn trên, điều này sẽ đưa đến mất khả năng kiểm soát tiền tệ của chínhh phủ Việt Nam. Đồng "tốt" Nhân dân tệ vì sức mạnh kinh tế của Trung Quốc sẽ đuổi đồng "xấu" Việt Nam ra khỏi thị trường. Cái gọi là tình trạng vàng hóa và đô la hóa ở Việt Nam đã đưa đến lượng "phương tiện thanh toán" thoát khỏi hoặc xâm nhập vào thị trường nội địa tùy theo tình hình đầu cơ, sẽ làm Ngân hàng Trung ương mất khả năng theo dõi và kiểm soát lượng tiền tệ trong nền kinh tế. Nên nhớ rằng tiền tệ là bất cứ vật thể gì đáng tin cậy, có thể dùng rộng rãi làm phương tiện thanh toán.
Sự mất tin tưởng vào nội tệ có thể tạo ra tình trạng capital flight (rút chạy của ngoại tệ) ra nước ngoài, làm quốc gia mất khả năng trả nợ, mất khả năng nhập khẩu, đẩy hối suất lên cao và gây lạm phát. Tình trạng ngoại tệ tháo chạy (bằng cách chuyển nội tệ sang ngoại tệ), qua việc bán tháo cổ phiếu, địa ốc năm 1997 đã đưa đến việc mất khả năng chi trả nợ nước ngoài, làm suy sụp chính quyền Suharto ; còn Mã Lai đã phải đối phó bằng các biện pháp hạn chế chuyển ngoại tệ để ngăn chặn việc tháo chạy của ngoại tệ.
Ngược lại với tình trạng trên là chính sách đẩy mạnh phát triển chủ yếu dựa vào tín dụng và vay mượn nước ngoài, đưa đến tình trạng đầu cơ thu hút ngoại tệ, qua thị trường cổ phiếu, FDI, địa ốc tạo ra lượng cung tiền tệ lớn hơn nhiều so với mức tăng sản xuất ; nền kinh tế trở nên quá nóng đưa lạm phát lên cao cùng với mức tăng phi lý của giá trị tài sản, kinh tế tất nhiên sẽ mất ổn định và sự suy sụp của giá tài sản sau đó là điều không tránh khỏi. Đây là tình trạnh xảy ra những năm sau năm 2006 ở VIệt Nam.
Khả năng kiểm soát tiền tệ chính là điều kiện để một nước có khả năng đối phó với tình trạng tháo chạy của tư bản hay tình trạnh quá nóng của nền kinh tế. Ngay những nước này gặp vấn đề này, lúc đó, cũng không ai cho phép chi trả thanh toán trong nội địa bằng ngoại tệ.
2. Các phương pháp thanh toán trong buôn bán quốc tế và ảnh hưởng của chúng ra sao ?
Trước khi đi vào cụ thể hơn, ta cũng nên biết qua về cách thanh toán trong buôn bán quốc tế.
Hợp đồng hay biên lai buôn bán hàng hóa trên thị trường quốc tế có thể viết trên cơ sở bất cứ đồng bạc nào dựa vào sự đồng ý giữa hai bên có trao đổi. Việt Nam có thể mua hàng của Trung Quốc và trả bằng USD, Nhân dân tệ hay đồng Việt Nam. Đây là đồng bạc ghi trong biên lai mua bán. Khi chi trả, cần thông qua ngân hàng để giải quyết bằng đồng tiền ghi trong biên lai, nhưng người nhận hay người chi trong nước chỉ nhận và chi bằng nội tệ. Việt Nam nếu phải trả bằng USD thì ra ngân hàng thương mại mua USD bằng đồng Việt Nam để thanh toán. Còn nếu thanh toán bằng Nhân dân tệ, thì phải mua Nhân dân tệ bằng đồng Việt Nam ở ngân hàng để thanh toán. Ngược lại, nếu bán hàng nhận Nhân dân tệ thì ra ngân hàng thương mại đổi ra tiền Việt. Qua cách làm như vậy, Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được lưu lượng tiền tệ. Như vậy, một nước muốn kiểm soát được tiền tệ và giá cả thì phải theo nguyên tắc không cho phép mở tài khoản bằng ngoại tệ.
Nhưng vì Nhân dân tệ không phải là đồng tiền chuyển đổi tự do nên Việt Nam sẽ gặp khó khăn nếu chấp nhận chi trả bằng Nhân dân tệ.
Không có nước nào có lệnh ép buộc phải ghi biên lai bằng 1 đồng tiền nào đó, nhưng vì đồng USD đang được sử dụng rộng rãi nên nó tự nhiên trở thành đồng tiền ghi biên lai.
2.1 Nhân dân tệ có thể dùng làm dự trữ ngoại tệ không ?
Nếu ý đồ của Trung Quốc là kêu gọi Việt Nam dùng Nhân dân tệ làm dự trữ ngoại tệ thì đó là việc bản thân Ngân hàng nhà nước Việt Nam sẽ phải quyết định, dựa trên lợi ích có thể có nếu dùng chúng vào việc đó như dùng USD, EU hay đồng Yen.
Bất lợi cho Việt Nam
Có thể nhận định là đồng Nhân dân tệ hiện nay không được chuyển đổi tự do và khi được phép chuyển đổi, giá Nhân dân tệ cũng chưa do thị trường quyết định. Ở Trung Quốc hiện nay vẫn phải xin phép và chỉ với lý do được coi là chính đáng mới có thể đổi đồng Nhân dân tệ sang đồng tiền khác và chuyển ra nước ngoài. Trong tình hình này, dù các nhà sản xuất Việt Nam có đồng Nhân dân tệ họ cũng không thể tự do chuyển sang đồng ngoại tệ khác để đưa về nước hoặc dùng chúng để mua hàng hóa nước khác. Tình hình như hiện nay thì Việt Nam sẽ chịu nhiều thiệt thòi sau :
a) Nhân dân tệ thu được chỉ có thể dùng để mua hàng Trung Quốc.
b) Trong trường hợp được phép thì Việt Nam phải chịu hai thiệt thòi : i) trả chi phí chuyển đổi, ii) chịu rủi ro trong thay đổi hối suất khi Nhân dân tệ mất giá.
Lợi cho Trung Quốc
Trung Quốc bán và mua hàng bằng Nhân dân tệ, nên hoàn toàn không phải chịu phí chuyển đổi và cũng không chịu rủi ro thay đổi hối suất. Trung Quốc có thể dễ thu hút người mua có dự trữ Nhân dân tệ.
2.2 Có nên để Ngân hàng Trung Quốc được quyền cấp tín dụng bằng Nhân dân tệ trên thị trường Việt Nam ?
Câu trả lời cũng là không.
Một quốc gia có thể thu hút tư bản nước ngoài (tức là ngoại tệ) bằng nhiều biện pháp để phát triển kinh tế :
a) Thu hút vốn tự có qua đầu tư trực tiếp (FDI) hay phát hành cổ phiếu ra nước ngoài để có ngoại tệ nhập máy móc và cho các chi phí cần ngoại tệ ;
b) Vay mượn qua vay ngân hàng nước ngoài hay bán trái phiếu cho nước ngoài.
Tất cả ngoại tệ thu được đều phải chuyển qua ngân hàng thương mại, đổi thành nội tệ nếu được chuyển về trong nước. Chỉ trong trường hợp hãn hữu (có tính phi nguyên tắc và nếu được áp dụng rộng rãi sẽ có hại cho chính sách tiền tệ, và không nên khuyến khích) là các khoản vốn này được gửi vào tài khoản bằng ngoại tệ.
Việc xử lý Nhân dân tệ cũng phải thực hiện trên cơ sở được bàn ở trên. Không có lý do gì cho phép một ngân hàng Trung Quốc được mở ở Việt Nam nhằm cấp tín dụng bằng Nhân dân tệ trên thị trường Việt Nam vì như thế đồng nghĩa với việc cho phép Trung Quốc tham gia vào việc phát hành tiền tệ trên thị trường Việt Nam.
Không rõ điều Hiệp hội doanh nghiệp Trung Quốc và Ngân hàng Công thương Trung Quốc kiến nghị1 cụ thể thế nào, nhưng tin trên báo Việt Nam cho biết như sau :
Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc cho rằng nếu thị trường thanh toán Nhân dân tệ từ biên giới được mở rộng đưa vào nội địa Việt Nam và được các ngân hàng thực hiện theo con đường chính ngạch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể quản lý nguồn vốn này hiệu quả, tăng cường thu thuế và công tác phòng chống rửa tiền.
Doanh nhân Trung Quốc đã lý luận rằng Việt Nam đã cho phép thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ lên tới 15 tỷ USD ở vùng biên giới, và cho rằng do việc mang tiền qua biên giới bị kiểm soát chặt nên mới có yêu cầu cho tự do hơn này và họ than phiền như sau :
Tuy nhiên, sau khi thanh toán, các thương nhân muốn mang VND và CNY qua cửa khẩu biên giới phải tuân theo quy định chặt chẽ về mang ngoại tệ tiền mặt cũng như mang VND tiền mặt khi xuất nhập cảnh. Hơn nữa, các giao dịch thanh toán tại biên giới Việt Nam phải thực hiện thông qua một ngân hàng được phép của Việt Nam ở khu vực biên giới.
Chính thông tin trên cho thấy chính quyền Việt Nam đang tự cho phép mình mất chủ quyền về tiền tệ ở vùng biên giới, biến các tỉnh này thành vùng đầu tầu giúp Trung Quốc tiến công xâm nhập vào thị trường Việt Nam bằng quyền sử dụng Nhân dân tệ. Việc tự đánh mất chủ quyền thể hiện rõ qua chính sách của chính quyền Việt Nam hiện nay là cho phép mỗi người dân ở biên giới nhập hàng Trung Quốc về 2 triệu VND/ngày. Chính sách kiểu này là cho phép hợp pháp hóa buôn lậu của nhóm lợi ích. Chính sách này cần chấm dứt.
Phải chăng đây cũng là lý do tại sao Việt Nam không còn kiểm soát được nhập khẩu từ Trung Quốc và chất lượng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc ? Cũng nên nói qua là tổng nhập siêu từ Trung Quốc ngày càng tăng và năm 2013 lên đến gần 24 tỉ US so với xuất siêu sang Mỹ là 18 tỷ. Và hàng nhập từ Trung Quốc chủ yếu là máy móc, nguyên liệu để gia công. Mở rộng thêm theo đề nghị của phía Trung Quốc là mở rộng khả năng Nhân dân tệ đuổi đồng nội tệ ra khỏi thị trường Việt Nam và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc điều hành nền kinh tế Việt Nam và chính trị ở Việt Nam. Đây cũng chính là lúc chính quyền Việt Nam nên xem xét lại chính sách tiền tệ và thương mại với Trung Quốc ở khu vực biên giới. Một chính sách phù hợp là thực hiện mậu dịch qua ngân hàng bằng đồng tiền chuyển đổi được trên thị trường thế giới, còn nếu không thì dựa trên việc thành lập qua ngân hàng một quĩ chuyển đổi giữa đồng Việt Nam và Nhân dân tệ, bên Việt Nam có thể mua hàng bằng đồng Việt và bên Trung Quốc có thể mua hàng bằng Nhân dân tệ, phần còn lại được giải quyết bằng đồng chuyển đổi. Đây cũng là cách hai bên hợp tác nhằm có biện pháp phù hợp cân bằng thương mại giữa hai nước.
Vũ Quang Việt
Theo anhbasam.wordpress.com (20/01/2015)
Chú thích :
kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/ebank/ngan-hang/doanh-nghiep-trung-quoc-muon-thanh-toan-nhan-dan-te-tai-viet-nam-3129717.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét